Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương - Những bài văn hay lớp 10

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 308,1 KB
Nhà phát hành: Sưu tầm


Thông tin về Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương: Mời các thầy cô và các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu lớp 10:Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương, hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp cho các bạn có thêm kiến thức Ngữ văn lớp 10 của mình.

Giới thiệu

Download.com.vn xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương, đây là tài liệu được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.

Truyền thuyết An Dương Vương là một câu truyện nói đến hai bị kịch vô cùng đau khổ đó là bị kịch mất nước và bi kịch của tình yêu. Sau đây mời các thầy cô và các bạn cùng tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương.

Dàn ý phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu

Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương

I. Mở bài:

- Giới thiệu truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy.

- Nêu khái quát về bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện: Đây là hai bi kịch nổi bật trong truyện và có ý nghĩa biểu hiện lớn.

II. Thân bài

1. Bi kịch mất nước

- Quá trình xảy ra bi kịch:

+ Ban đầu, An Dương Vương là người có công lao to lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Nhờ có sự giúp đỡ của Rùa Vàng đã xây thành, chế nỏ, đánh đuổi giặc ngoại xâm.

+ Sau đó, ngủ quên trong chiến thắng, An Dương Vương đã mắc phải một loạt sai lầm:

+ Nhận lời cầu hòa của giặc mà không mảy may nghi ngờ

+ Chấp nhận gả con gái cho giặc, để Trọng Thủy ở rể, vô tình tạo cơ hội để giặc ươm mần tai họa.

+ Để con gái tự ý dẫn con trai kẻ thù thăm thú thành, lộ báu vật quốc gia.

+ Cậy vào thành cao, hào sâu, không xây dựng lực lượng, đến khi địch tấn công vẫn ung dung đánh cờ.

- Nguyên nhân dẫn đến bi kịch mất nước

+ Lơ là, mất cảnh giác, không đề phòng trước những âm mưu gian hiểm của địch

+ Chủ quan có thành trì kiên cố, nỏ thần chiến thắng mọi kẻ thù nên không không dựng lực lượng.

+ Không nắm được hết nội bộ của mình, không hiểu hết tính cách con gái, nhẹ dạ cả tin.

- Bài học về bi kịch mất nước

+ Nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu xâm lược của kẻ thù.

+ Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa gia đình, quốc gia, dân tộc

+ Luôn củng cố sức mạnh quân sự, không ỷ thế vào tiềm lực sẵn có mà chủ quan, lơ là.

- Thái độ của nhân dân trước bi kịch mất nước

+ Luôn tin tưởng vào bản chất ái quốc của vị vua thực tài có công lao to lớn với đất nước. Dù đã mắc những sai lầm to lớn cuối cùng đã sửa sai bằng cách chém chết Mị Châu sau khi nghe lời kết tội của Rùa Vàng, hành động vì lẽ phải, vì dân tộc

+ Cái nhìn bao dung và biết ơn của nhân dân: Bất tử hóa cái chết của An Dương Vương

2. Bi kịch tình yêu.

- Quá trình diễn ra bi kịch:

* Mị Châu:

+ Mị Châu vốn là một nàng công chúa hồn nhiên, trong sáng, hết mình vì tình yêu đến mức mù quáng.

+ Không đề phòng Trọng Thủy, nàng đã hồn nhiên tiết lộ những bí mật quốc gia, để kẻ thù đánh cắp nỏ thần, rắc lông ngỗng dẫn đường cho giặc đuổi theo.

+ Cuối cùng, phát hiện bị lừa dối, phản bội nàng đau đớn, xót xa ân hận vô cùng

* Trọng Thủy:

+ Trọng Thủy cũng yêu Mị Châu nhưng lại nuôi tham vọng lớn là vừa có được nước Âu Lạc, vừa có được hạnh phúc bên người đẹp.

+ Trọng Thủy phải gánh trọng trách chữ hiếu, chữ trung với phụ vương, với quốc gia, nên đã lựa chọn hi sinh chữ tình.

+ Cuối cùng trước cái chết của Mị Châu đã vô cùng đau đớn, dằn vặt, ân hận

→ Cả Trọng Thủy và Mị Châu đều là những con người chịu đau đớn trong mối tình này.

- Nguyên nhân dẫn đến bi kịch:

+ Do lơ là, mất cảnh giác chủ quan, khinh địch của An Dương Vương

+ Bởi sự mù quáng, nhẹ dạ cả tin của Mị Châu

+ Do tham vọng to lớn đến thâm hiểm của cha con Triệu Đà.

- Bài học, ý nghĩa rút ra sau bi kịch

+ Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng

+ Không yêu một cách mù quáng

+ Tình yêu không thể đi liền với chiến tranh, những toan tính.

- Thái độ của nhân dân trước bi kịch tình yêu

Bao dung, đồng cảm, xót thương: Chi tiết ngọc trai-giếng nước cuối truyện không chỉ mang ý nghĩa minh oan cho Mị Châu mà còn thể hiện mối tình thủy chung, gắn bó của Mị Châu - Trọng Thủy ở một kiếp khác.

3. Mối quan hệ giữa bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu.

- Bi kịch tình yêu mở đường cho bi kịch mất nước:

+ Đằng sau câu chuyện tình yêu của Mị Châu Trọng Thủy là một âm mưu chính trị thâm hiểm. Trọng Thủy đến với Mị Châu chủ yếu làm gián điệp, cướp nỏ thần và đuổi cùng giết tận nước Âu Lạc.

+ Mị Châu vì tình yêu cũng đã vô tình tiếp tay cho giặc

→ Tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy là thủ phạm trực tiếp dẫn đến bi kịch mất nước.

- Bi kịch mất nước tạo nên bi kịch tình yêu:

+ Vì sự lơ là, mất cảnh giác, chủ quan An Dương Vương vô tình đẩy con gái vào bi kịch tình yêu.

+ Vì chiến tranh, thâm thù và tham vọng cả Mị Châu và Trọng Thủy đều phải chịu đau khổ.

→ Bi kịch tình yêu của Mị Châu - Trọng Thủy cũng là hệ quả, nạn nhân của bi kịch mất nước

III. Kết bài:

- Khái quát lại nội dung và giá trị thể hiện của bi kịch mất mất nước và bi kịch tình yêu.

- Thể hiện suy nghĩ, cảm nhận trước hai bi kịch đó: Xót thương, đồng cảm và có những nhận thức sâu sắc về các bài học quý giá từ hai bi kịch đó.

Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu - Mẫu 1

Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương

Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết nổi bật nhất trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam. Truyện đề cập đến hai bi kịch cơ bản: bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu, mỗi bi kịch ứng với từng nhân vật. Qua đó đã để lại những bài học sâu sắc cho thế hệ sau.

An Dương Vương tiếp nối sự nghiệp dựng nước và giữ nước của cha ông, khi tiếp quản, ông đã có quyết định táo bạo dời kinh đô về Cổ Loa, với địa hình rộng, bằng phẳng sẽ thuận lợi cho việc giao thương, từ đó tạo điều kiện để phát triển đất nước. Ông chủ động xây dựng Loa Thành với chín vòng kiên cố, được sự giúp đỡ của Rùa Vàng, Loa Thành đã hoàn thiện. Cùng với nỏ thần, An Dương Vương đã đẩy lui được sự xâm lược của Triệu Đà. An Dương Vương tỏ ra là vị vua anh minh, sáng suốt và có tầm nhìn xa trông rộng. Những tưởng đất nước sẽ phồn thịnh, nhân dân sẽ ấm no dưới sự cai trị của vua An Dương Vương, nhưng chỉ vì một phút lơ là, mất cảnh giác mà đã dẫn đến cảnh nước mất nhà tan.

Bi kịch mất nước của An Dương Vương bắt nguồn từ việc đồng ý lời cầu hôn của Triệu Đà. Triệu Đà sau khi bại trận, biết không thể đánh lại lực lượng hùng mạnh và nỏ thần của An Dương Vương nên đã nghĩ ra mưu kế hoãn binh cầu hôn Mị Châu cho con trai là Trọng Thủy. Hành động này của hắn chính là một bước đệm để thực hiện âm mưu cướp nước Âu Lạc sau này. Nhưng vua An Dương Vương cả tin, ngây thơ không hề phòng bị, theo tục Âu Lạc, Trọng Thủy về ở rể, chính An Dương Vương đã rước rắn về nhà, làm lộ bí mật quân cơ mà ông lại không hề hay biết.

Vua cha đã không hề phòng bị, bởi vậy nàng Mị Châu ngây thơ trong trắng cũng chẳng mảy may nghi ngờ. Nghe lời đề nghị xem nỏ thần của Trọng Thủy, Mị Châu lập tức đồng ý ngay mà không hề suy xét. Nàng luôn làm tròn bổn phận của một người vợ, nhưng lại quên đi trọng trách của một công dân với đất nước. Trọng Thủy nắm lấy cơ hội đã tráo đổi nỏ thần. Nguy cơ mất nước ngày một lớn dần.

Khi quân Triệu Đà kéo sang xâm lược lần hai, An Dương Vương vẫn thản nhiên, bình tĩnh chơi cờ vì nghĩ rằng có nỏ thần thì quân Triệu Đà sẽ đại bại như lần trước. Ông đâu có ngờ nỏ thần đã bị đánh tráo từ lâu. Chính tâm lí ỷ lại, ngủ quên trên chiến thắng của An Dương Vương lại một lần nữa đẩy ông vào hố sâu bi kịch mất nước. Những sai lầm nghiêm trọng của người đứng đầu đã không còn cơ hội sửa chữa, ông phải mang theo Mị Châu bỏ trốn, quân giặc ráo riết đuổi phía sau, tình cảnh vô cùng bi thương. Đứng trước biển cả mênh mông, phía sau là quân giặc, An Dương Vương bị dồn vào bước đường cùng phải kêu Rùa Vàng giúp đỡ. Kẻ thù, giặc chính là người con gái yêu của ông, lúc này dưới vai trò là một vị vua, trên lập trường lợi ích của quốc gia, dân tộc An Dương Vương đã giết chết con gái mình. Đây là hành động tất yếu dù vô cùng đau xót. Sự thức tỉnh của An Dương Vương tuy muộn mằn nhưng đó sẽ trở thành bài học xương máu cho thế hệ sau để không rơi vào thảm cảnh mất nước.

Bi kịch thứ hai chính là bi kịch tình yêu, bi kịch này xoay quanh hai nhân vật Mị Chậu và Trọng Thủy. Mị Châu là cô công chúa ngây thơ trong trắng, là con một nên tất yếu sẽ nhận được sự yêu thương, chiều chuộng của vua cha, và hệ quả cô sẽ không màng đến những chuyện đại sự của đất nước. Lấy Trọng Thủy theo lời vua cha, nàng hết lòng yêu thương và nghe lời chồng, không suy xét, không nghi ngờ những hành động, lời nói bất thường của Trọng Thủy. Trái ngược với sự ngây thơ của Mị Châu, Trọng Thủy lại là kẻ mưu mô, tìm mọi cách để lấy bí mật nỏ thần. Nhưng trong quá trình sinh sống, sự quan tâm chăm sóc, tấm lòng của Mị Châu đã làm Trọng Thủy rung động. Chính lúc này trong Trọng Thủy diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm giữa tình yêu và việc nước. Hai mâu thuẫn này đấu tranh gay gắt trong Trọng Thủy, nhưng đây là mâu thuẫn không thể dung hòa, buộc phải lựa chọn. Và Trọng Thủy đã chọn làm tròn nghĩa vụ công dân thay vì làm tròn tình yêu thương với vợ. Cướp được bí mật nỏ thần, cướp được nước và theo dấu lông ngỗng truy sát đến cùng cha và vợ. Trọng Thủy nhận lại được gì? Chỉ là nỗi đau đớn đến tột cùng khi thấy cái xác không đầu của Mị Châu. Khi hoàn thành nghĩa vụ của bề tôi thì Trọng Thủy chỉ cỏn lại tình yêu, vô cùng dằn vặt, day dứt ân hận với Mị Châu nên tìm đến cái chết. Trọng Thủy cũng giống Mị Châu, rơi vào nghịch cảnh: khi Mị Châu yêu thương mình hết lòng thì Trọng Thủy đã rất tàn nhẫn dối lừa Mị Châu, đến khi Trọng Thủy hết lòng yêu Mị Châu thì trong nàng bấy giờ chỉ còn lại duy nhất là nỗi hận thù. Đó chính là bi kịch của Trọng Thủy. Bi kịch đó là lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, dù chiến thắng hay chiến bại đều phải nhận những bi kịch đau đớn nhất.

Ngoài ra, trong bi kịch tình yêu cũng cần kể đến chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng ngọc trai – giếng nước. Máu Mị Châu chảy xuống biển biến thành ngọc châu, khi lấy ngọc ấy rửa với nước giếng nơi Trọng Thủy tự vẫn thì càng sáng đẹp hơn. Đây không chi tiết biểu cho tình yêu vĩnh cửu tìm về với nhau trong một thế giới khác. Mà chỉ có thể hiểu là sự tha thứ của Mị Châu sau khi Trọng Thủy đã phải đền tội. Đồng thời chi tiết này cũng minh chứng cho tấm lòng trong sáng của Mị Châu, nàng không phải kẻ bán nước. Ở đây ta thấy được thái độ xót xa, thương cảm của nhân dân dành cho nàng.

Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu - Mẫu 2

Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.

(Tố Hữu)

Bốn câu thơ lại gợi nhắc ta xót xa nhớ về câu chuyện dân gian “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” với hình ảnh một vị vua tài giỏi trong buổi đầu dựng nước đã đánh tan các cuộc xâm lăng hung bạo của kẻ thù nhưng cuối cùng lại thất bại một cách đau xót, trong giây phút chủ quan đã để cho giang sơn xã tắc tuột khỏi tầm tay, làm nên một bài học kinh nghiệm xương máu khó có thể nào quên.

Đọc “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước bi kịch mất nước Âu Lạc và cả bi kịch tình yêu của nàng công chúa Mị Châu.

Trong truyền thuyết dân gian, An Dương Vương xuất hiện như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một tinh thần chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Nhờ sự giúp đỡ của thần Kim Quy, ngài đã xây được Loa thành vững chắc và chế được nỏ thần – một vũ khí vô cùng lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết chết hàng nghìn quân giặc.

Năm ấy,Triệu Đà cử binh xâm lược phương Nam, song vì Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua lớn, bèn xin giao hòa. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho con trai mình với con gái An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua nào ngờ Trọng Thuỷ đã tỉ tê trò chuyện với Mị Châu để tìm hiểu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu – một người con gái nhẹ dạ cả tin đã thành thật giải thích cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, tạo điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, đánh tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt vợ với lí do “tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể vứt bỏ” và nói dối Mị Châu về phương Bắc thăm cha. Triều Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang đánh. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát đến thành vẫn ung dung ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao ? ”. Cho đến khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy lẫy thần đã mất, không còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao ước, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo mà đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa vàng nổi lên mặt nước, thét lớn “kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển.

Vì sao một con người tài trí như vậy lại có thể đánh mất cơ nghiệp lớn lao trong phút chốc ? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần ? Đúng như vậy. Nỏ thần là một vũ khí lợi hại, chính nhờ nó mà An Dương Vương đã đánh thắng quân giặc nhưng cũng chính vì nó mà vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu kế bẩn thỉu của bọn xâm lăng. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà.

Nước mất nhà tan còn do nhà vua không nắm vững nội bộ của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của con gái yêu Mị Châu là nàng công chúa hết sức thật thà, nhẹ dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng vì quá tin tưởng vào hắn mà Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật quốc gia.

Nỗi đau mất nước ấy quả thật là quá lớn. Nhưng ta lại càng đau xót trước tình yêu chân thành của nàng công chúa phương Nam.

Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu - Mẫu 3

Phân tích bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu trong truyện An Dương Vương

Hẳn là mỗi lần nhắc đến cái nỏ thần chúng ta đêu nhớ đến câu chuyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy. Câu chuyện ấy như một câu chuyện lịch sử và cũng có những yếu tố hư cấu thể hiện được những buổi đầu dựng nước của ông cha ta. Đọc truyện ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước bi kịch mất nước Âu Lạc và cả bi kịch tình yêu của nàng công chúa Mị Châu.

Trong truyền thuyết dân gian, An Dương Vương xuất hiện như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một tinh thần chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Nhờ sự giúp đỡ của thần Kim Quy, ngài đã xây được Loa thành vững chắc và chế được nỏ thần – một vũ khí vô cùng lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết chết hàng nghìn quân giặc.

Năm ấy,Triệu Đà cử binh xâm lược phương Nam, song vì Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua lớn, bèn xin giao hòa. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho con trai mình với con gái An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua nào ngờ Trọng Thuỷ đã tỉ tê trò chuyện với Mị Châu để tìm hiểu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu – một người con gái nhẹ dạ cả tin đã thành thật giải thích cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, tạo điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, đánh tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt vợ với lí do “tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể vứt bỏ” và nói dối Mị Châu về phương Bắc thăm cha. Triều Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang đánh. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát đến thành vẫn ung dung ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao ? ”. Cho đến khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy lẫy thần đã mất, không còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao ước, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo mà đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa vàng nổi lên mặt nước, thét lớn “kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển.

Vì sao một con người tài trí như vậy lại có thể đánh mất cơ nghiệp lớn lao trong phút chốc ? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần ? Đúng như vậy. Nỏ thần là một vũ khí lợi hại, chính nhờ nó mà An Dương Vương đã đánh thắng quân giặc nhưng cũng chính vì nó mà vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu kế bẩn thỉu của bọn xâm lăng. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà.

Nước mất nhà tan còn do nhà vua không nắm vững nội bộ của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của con gái yêu Mị Châu là nàng công chúa hết sức thật thà, nhẹ dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng vì quá tin tưởng vào hắn mà Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật quốc gia.

Sẽ là thiếu sót nếu tìm hiểu bi kịch mất nước của An Dương Vương mà không khám phá bi kịch tình yêu Mị Châu – Trọng Thủy. Mối tình Mị Châu – Trọng Thủy là mối tình éo le, bởi song song và đan cài với sự nghiệp giữ nước Âu Lạc là mối tình của hai người, mà nguyên nhân của nó chính là bài học muôn đời cho những ai muốn đặt tình yêu cá nhân lên trên vận mệnh quốc gia, dân tộc, tác tình yêu khỏi những mối quan tâm chung.

Nếu có thể coi quan hệ Mị Châu – Trọng Thủy là một mối tình thì đó cũng không thể là mối tình chung thủy, bởi trong khi Mị Châu ngây thơ hết lòng vì chồng thì Trọng Thủy đã sẵn có âm mưu chiếm bí mật nỏ thần. Trọng Thủy đến Âu Lạc vì mục tiêu duy nhất đó. Nhưng những ngày ở Âu Lạc, bên cạnh người vợ đẹp người, ngoan nết, trong sáng và tin yêu. Trọng Thủy đã nảy sinh mối tình thật sự chân thành với Mị Châu, cũng là nảy sinh mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thủy, tham vọng chiếm được nước Âu Lạc và tham vọng trọn tình với người đẹp. Vì vậy, trộm được nỏ thần, về nước để chuẩn bị chiến tranh, Trọng Thủy vẫn muốn tìm lại Mị Châu nhờ dấu lông ngỗng đưa đường, hi vọng sẽ sống với Mị Châu trên đất Âu Lạc mà mình làm bá chủ. Nhưng hai tham vọng đó làm sao có thể dung hòa ! Trọng Thủy có thể vừa chiếm nước Âu Lạc vừa tận hưởng hạnh phúc bên người con gái biết mình vô tình bán nước được chăng? Rắc lông ngỗng dọc đường chạy loạn, lại một lần nữa Mị Châu đã vô tình chỉ dẫn cho quân giặc đuổi theo, vô tình đưa hai cha con đến chỗ cùng đường. Nàng chỉ kịp nhận ra sự thật đau lòng đó trước lúc rơi đầu, khi Kim Quy kết tội nàng là “giặc”. Cái chết của Mị Châu khiến tham vọng của Trọng Thủy cũng tiêu tan. Vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ phải là người vui mừng hưởng thụ vinh quang thì Trọng Thủy lại tự tử vì nỗi “tiếc thương Mị Châu khôn cùng“. Thủy đã tự vẫn vì không thể chỉ chọn một trong hai tham vọng, chết vì bị giày vò bởi mối tình mâu thuẫn không thể giải quyết nổi trong con người anh. Cái chết đó đã gợi chút xót xa cho mọi người. Mối tình giữa Mị Châu – Trọng Thủy éo le, giang dở là do luôn có âm mưu gây chiến của Triệu Đà len lỏi vào. Nếu như Đà thực sự cầu hòa, nếu như hai nước đều lấy hòa bình làm trọng, thì mối tình Mị Châu – Trọng Thủy chẳng phải là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sắc sao? Kết thúc bi thảm của mối tình đó có nguyên nhân sâu xa từ âm mưu xâm lược và đã thực sự mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh.

...............

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!

download.com.vn