Bài văn mẫu lớp 11: Lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu - Bài văn mẫu lớp 11 hay nhất

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 214,9 KB
Lượt tải: 289
Nhà phát hành: Sưu tầm


Taifull.net giới thiệu:Bài văn mẫu lớp 11: Lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu: Mời các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo bài văn mẫu: Lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu được chúng tôi tổng hợp và đăng tải ngay sau đây.

Nội dung chi tiết:

Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ cũng là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.

Sau đây, mời các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo bài văn mẫu: Lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu được chúng tôi tổng hợp và đăng tải ngay sau đây. Mời ban đọc cùng tham khảo và tải tại đây.

Dàn ý lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu

1. Mở bài

Giới thiệu bài thơ “Từ ấy” và Tố Hữu.

2. Thân bài

- Sự giác ngộ lí tưởng Đảng của chàng thanh niên(hai câu đầu)

- Những cảm xúc khát khao mãnh liệt của người thanh niên sau khi giác ngộ lí tưởng(hai câu tiếp)

- Lí tưởng sống mà người thanh niên hướng tới:

- Sống vì cộng đồng, sống chan hòa, đoàn kết, yêu thương(khổ 2)

- Không phân biệt giai cấp, sống yêu thương đồng bào như máu thịt(khổ 3)

- Liên hệ tới thế hệ trẻ ngày nay

3. Kết bài

- Khẳng định lí tưởng của người thanh niên trong bài là lí tưởng cao đẹp, vĩ đại, là một trong những yếu tố tiên quyết trong chiến thắng dân tộc.

Lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu - Mẫu 1

Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là "lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng". Từ một thanh niên trí thức tiểu tư sản, được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã trở thành một chiến sĩ cộng sản. Thơ Tố Hữu gắn với cuộc sống cách mạng và chính trị, thời sự đất nước. Các tác phẩm chính: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa,…

Từ ấy (1937 - 1946) là chặng đường đầu của thơ Tố Hữu. Tập thơ gồm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Bài thơ Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm,…

Tâm trạng nhà thơ có sự vận động qua ba khổ thơ: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng (khổ 1); những nhận thức mới về lẽ sống (khổ 2); sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.

Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

Hai câu thơ mở đầu trong khổ thơ 1 được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim

Từ ấy là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niện Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim, Tố Hữu khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí - một sự liên kết sáng tạo giữ hình ảnh và ngữ nghĩa. Mặt trời của thiên nhiên đem lại cho nhân gian ánh sáng, hơi ấm, sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những diều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi lí tưởng như vậy thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, những động từ "bừng", (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột), "chói" (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng, tình cảm.

Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn, cùng với hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời", còn gì quý giá hơn khi có một lí tưởng như có cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu đời làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn. Tố Hữu là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật mà đã khơi dậy sức sống, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.

Ở khổ thơ thứ hai, trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân chủ nghĩa. Khi dược giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống và sự gắn bó hài hòa "cái tôi" cá nhân và" cái ta" chung của mọi người. Với động từ "buộc", câu 1 là một cách nói quá thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của "cái tôi" cá nhân để sống chan hòa với mọi người ("trăm nơi" là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Với từ "trang trải" ở câu 2, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ở câu 4, "khối đời" là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi "cái tôi" chan hòa trong "cái ta", khi cá nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ dược nhận lên gấp bội.

Tóm lại, Tố Hữu đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt. Những điệp từ "là" cùng với từ "con" "em", "anh" và số từ ước lệ "vạn" (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những "kiếp phôi pha" (những người đau khổ bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống) những em nhỏ "không áo cơm cù bất, cù bơ" (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy, người đọc thấy được lòng căm hận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng trở thành đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương; chú bé đi ở trong Đi đi em; ông lão khôn khổ trong Lão đầy tớ; em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,...).

Đến đây có thể thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung. Cần nói rõ: đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao.

Từ ấy là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu. Từ ấy đánh dấu một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu và trong sự nghiệp thơ ca của ông. Bài thơ không ngừng hấp dẫn độc giả các thế hệ.

Lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu - Mẫu 2

Tố Hữu vừa là nhà cách mạng quả cảm, một Đảng viên ưu tú, một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của nhân dân trong những năm kháng chiến chống Pháp. Thơ ông dung dị nhưng nồng nàn tinh thần cách mạng và lòng tự hào dân tộc. Bài thơ “Từ ấy” được in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1938 đã tỏ rõ lí tưởng Đảng cao đẹp của người thanh niên trẻ tuổi trẻ lòng ấy.

Người thanh niên này được giác ngộ lí tưởng Đảng từ khi còn rất sớm, năm mười tám tuổi đã được kết nạp Đảng, với một độ tuổi mang trong mình nhiều nhiệt huyết can trường của tuổi trẻ, anh đã đón nhận ánh sáng của cách mạng như đón những luồng ánh sáng của thần linh:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim

“Từ ấy” ở đây chính là từ khi ánh sáng cách mạng về với nhân dân, xóa tan đi mọi sương mờ chính trị trước đó. Từ đây nhân dân hiểu được cách mạng, tìm được chỗ dựa tinh thần cho niềm tin vào công cuộc giải phóng dân tộc và được sống trong không khí hào hứng xung trận của thời đại “vì dân quên mình”. Ánh sáng ấy bắt nguồn từ mặt trời chân lí, đó là Đảng, là mặt trời của giai cấp vô sản, mặt trời vĩnh cửu của nhân dân, mặt trời chói chang cái nắng hạ ấm áp và hừng hực lửa quyết chiến quyết thắng. Trong tim của người thanh niên trẻ chỉ có tràn đầy một sinh lực duy nhất đó là lí tưởng Đảng, chính lí tưởng đấy là động lực và niềm tin để anh trải lòng với cuộc đời và yêu thêm cuộc sống, để mà:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

Hẳn lúc này, trong lòng người thanh niên đang rạo rực những tình cảm mới, xanh tươi, thơm mát, rộn ràng. Đâu còn cái u sầu của lớp thanh niên trí thức thời đại đang loay hoay không biết kiếm tìm đâu ra còn đường đúng đắn nữa mà chỉ còn một tâm hồn xốn xang những cảm xúc yêu đời, hạnh phúc đắm mình trong ánh sáng của Đảng.
Ánh sáng ấy đã khiến trong người thanh niên có những suy nghĩ tươi đẹp, đó là lí tưởng sống cao đẹp, lẽ sống lớn với tình cảm lớn:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Từ “buộc” được sử dụng thật tinh tế. Có lẽ sợi dây liên kết giữa mọi người giờ đây chính là sợi dây đồng chí hướng của Đảng của cách mạng, tâm hồn của con người đã không còn thấy đâu cái vị kỉ cá nhân nữa mà hoàn toàn được “trang trải” rộng rãi khắp nơi nơi, sống chan hòa, yêu thương, để đoàn kết “thêm mạnh khối đời”. Đảng Cộng Sản là sự đoàn kết của giai cấp vô sản, lí tưởng cao đẹp của những con người yêu nước, được giác ngộ điều này, người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi đã tự coi mình là:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...

Ở khổ thơ cuối ta nhận ra sự từ chối phân biệt giai cấp trong một tâm hồn tràn ngập tình thân. Những từ: “con”, “em”, “anh” được thốt ra hết sức thân mật đã đánh tan rào cản giai cấp. Dưới sự bảo bọc của Đảng, đồng bào là anh em máu thịt một nhà, không phân biệt ai với ai cần yêu thương nhau, chở che, đùm bọc lẫn nhau, thậm chí không ngại hi sinh vì cộng đồng dân tộc.

Giọng thơ nở tràn như lời thiết tha tâm tình với ý tứ xô bồ, giàu lí tưởng như ngọn lử đang thôi thúc trong tim của người thanh niên Cộng Sản. Người thanh niên ấy từ nay đã hiểu hết ánh sáng cao cả mà Đảng muốn trảo chuyền, anh đã coi mình là người của toàn dân, coi đồng bào là máu thịt tình thân, coi giai cấp đã không còn tồn tại trên đời, thứ duy nhất tồn tại là lí tưởng sống cao đẹp, lẽ sống lớn vì một cộng đồng dân tộc. Với một tấm lòng tràn đầy nhiệt huyết và năng lượng bùng cháy khát khao sống hết mình vì cuộc đời chung như vậy, có lẽ cái chết đối với những người thanh niên như vậy chỉ nhẹ tựa lông hồng khi hồn họ đã buộc với nhân dân, buộc với cách mạng, hi sinh cho tổ quốc đối với họ là tự hào, là lẽ sống. Lí tưởng lớn ấy đã thôi thúc những tinh thần thanh niên thời đại xung trận, đem hết tinh hoa, trí lực của mình vào công cuộc giải phóng đất nước và là niềm tự hào mãi mãi cho thế hệ sau.

Lí tưởng sống của người thanh niên thật cao cả, lớn lao, là lí tưởng muôn đời không phai và đây chính là sức mạnh vô cùng nòng cốt trong cuộc chiến ác liệt giữa ta và địch. Có những thanh niên giàu lí tưởng như vậy, lí tưởng của toàn dân tộc ta mới rực sáng như ánh mặt trời, đẩy tan mọi bóng tối của quân xâm lược.

 

download.com.vn