Bài văn mẫu lớp 11: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Những bài văn mẫu hay nhất lớp 11

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 222,5 KB
Lượt tải: 2
Nhà phát hành: Sưu tầm


Chia sẻ bởi Taifull.net:Bài văn mẫu lớp 11: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát: Bài văn mẫu lớp 11: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát là tài liệu cực kì hữu ích mà Taifull.net muốn giới thiệu đến các bạn đọc cùng tham khảo.

Nội dung chi tiết:

Download.com.vn xin giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Bài tập làm văn số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu đã tổng hợp những bài văn mẫu hay dành cho các em học sinh lớp 11 học tập hiệu quả hơn môn Ngữ văn. Mời các bạn và thầy cô tham khảo.

Dàn ý vẻ đẹp nhân cách nhà nho

1. Mở bài

- Giới thiệu: nhân cách nhà nho chân chính.

2. Thân bài

a. Nhân cách nhà nho chân chính là cái gì?

- Giải thích:

- Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất của con người.

- Thế nào là nhà nho? Nhà nho là những người tri thức thời xưa, theo Nho học.

Nhà nho là người đã học sách thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lí ….

Nhìn chung “Nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

b. Nhân cách nhà nho chân chính là thế nào?

- Trước hết nhân cách nhà nho chân chính là phải biết “tu thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị quốc”, ra làm quan để kính bang tế thế, giúp nước giúp đời.

“Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đóc Đông …”

- Nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ còn có tính cách của một nhà nho tài tử.

“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng …

- Nhân cách của nhà nho chân chính Cao Bá Quát lại có những nét đặc biệt:

“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước …”

3. Kết bài

- Đánh giá chung: Nhân cách nhà nho chân chính

Vẻ đẹp nhân cách nhà nho - Mẫu 1

Ta vẫn thường nghe: "Tài cao phận thấp, chí khí uất". Dường như cái tài năng vẫn chưa đủ để con người ta tỏa sáng những còn bởi một chữ "phận". Đó cũng chính là bi kịch cuộc đời của một con người tài hoa bậc nhất Cao Bá Quát. Ông hiện ra là một nhà nho giỏi, đức độ với một tâm hồn văn chương và cốt cách thanh cao. Được nhân dân tôn lên hàng thánh – thánh Quát. Vậy nhưng đương thời Chu Thẩn lại phải trải qua biết bao khổ ải, gian truân của một chế độ phong kiến thối nát suy tàn. Những nỗi niềm xót xa, phẫn uất của một đấng nam nhi đã được ông gửi gắm kín đáo trong tác phẩm Sa hành đoản ca.

Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát vốn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan niệm "chí làm trai". Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc trượng phu đương thời, ông luôn tâm niệm va khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lý tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả - "nợ tang bồng". Ông vố đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng chứng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Tuy nhiên đứng trước một xã hội phong kiến bảo thủ, trì trệ và khủng hoảng, con người ấy đã không thể thỏa mãn khát vọng của mình.

Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.

"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ nên một con đường rất dài. Bức tranh sa mạc mênh mông cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, vậy ra đi mà thực ra không đi. Đó là một hình ảnh rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác giả, cái tủi nhục của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy – khó nhọc mà xa vời. Đối với trí thức nho sĩ ngày xưa, con đường học – thi – làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Suốt những năm từ lúc 14 tuổi cho đến khi 31 tuổi, Cao Bá Quát đã vào Huế đi thi không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào ông cũng bị đánh hỏng. Không phải vì ông không có tài mà vì lẽ cái tính cách ngông nghênh của ông vốn đã quá nổi tiếng và không được lòng các vị quan triều thần. Đến đây lời thơ như những tiếng thở dài của chính tác giả, ta thấy được trướng nhất là sự chán ngán của Chu Thần trước thời cuộc. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, thoái hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình của thời thế.

Mặt trời đã lặn chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

"Mặt trời lặn" là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách "chưa dừng được". Vì sao chưa dừng được? Bởi lữ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu. Con đường cuộc đời ông đi mãi mà ông vẫn chưa tìm được cho mình chỗ đứng trong xã hội, chưa thỏa mãn ý chí lập nên công danh. Vậy nên bản thân ông không cho phép mình dừng lại. Nếu ở câu đầu mở ra là sự rộng lớn của không gian thì đến lúc này, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên tục của thời gian, tất cả những yếu tố thiên nhiên vũ trụ ấy dường như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát. Do đó, ông thấy mình trơ trọi cô đơn trước bãi cát hoang vu ấy và tự khóc cho số phận dai dẳng của mình. Có thể những giọt nước mắt ấy ban đầu chỉ đơn thuần do tác động của ngoại cảnh (gió, cát, bụi) nhưng chúng trở nên đắng hơn, mặn hơn và xót xa hơn bởi tâm sự của tác giả. Để rồi từ đây, những cung bậc cảm xúc của Chu Thần được đưa lên một vị trí mới:

Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối giận khôn vơi.

Chu Thần đang giận ai hay giận cái gì vậy? Ông đang giận chính bản thân ông bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, ta có thể hiểu: trước những cảnh đời khổ cực của nhân dân và thời thế thay đổi, ông dù một lòng trung quân ái quốc, hết mực thương dân nhưng vẫn chưa thể làm để đem tài năng ra giúp dân giúp nước. Ngay cả Nguyễn Công Trứ "ngất ngưởng" là thế mà con luôn tâm niệm "nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chúng". Vậy nên ông tự trách bản thân vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ với giang sơn xã tắc: "Không có lấy một sách lược gì làm cho đời được thái bình, thẹn mình là nhà nho mà lại tầm thường đến thế". Tâm sự này của ông khiến ta cảm thấy trân trọng một con người có tấm lòng đức độ và tâm hồn thanh cao trong thơ văn: "Nhất sinh đê thủ bái mao hoa".

Thứ hai, ông vô cùng hổ thẹn vì dù đã đeo đuổi con đường thi cử rất lâu mà vẫn chưa có được chức danh xứng đáng, vẫn chưa đạt được công danh để cho người đời thán phục. Thế nên lòng người càng trở nên bế tắc, oán hận và bi phẫn. Ông đã từng dùng hình ảnh tượng trưng để nói lên khí chất cao vời của mình"

"Ta ngẩng đầu lên nhìn tận ngoài trời
Những muốn vịn mây mà lên cao mãi."

Ông mong muốn có được phép thần tiên kì diệu để có tiếp tục đi trên con đường chông gai mặc cho đói khát, mệt mỏi hay buồn ngủ. Hy vọng có thể mau chóng tìm ra cho mình một cái đích rõ ràng.

Cách hiểu cuối cùng rất sâu sắc: đó chính là sự thoát li khỏi thực tại tầm thường. Đến như Nguyễn Công Trứ lỗi lạc là thế mà còn tìm kiếm lối thoát bằng cách cáo quan ở ẩn. Ở đây, Cao Bá Quát giá như bản thân có thể nhắm mắt làm ngơ, mặc cho sự đời biến đổi và mong muốn vất bỏ phiền muộn. Nhưng không! Với lý tưởng cao cả, chí khí ngoan cường, Chu Thần không thể thực hiện điều trái với đạo lý của bản thân. Do đó, cái "giận khôn vơi" ở đây, càng chiếu soi, làm tỏ hiện cho ta thấy được một Chu Thần với nhân cách cao cả, quý giá biết bao. Ông không muốn trốn tránh khó khăn nhưng luôn biết đối đầu và khắc phục khó khăn. Thật là nhân cách đáng ngưỡng mộ.

Những câu thơ tiếp theo lại đem đến cho người đọc về cái nhìn của Cao Bá Quát trước cảnh xã hội mưu cầu danh lợi:

Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?

Con đường danh lợi cũng là một thứ rất đường đời thật gập ghềnh, trắc trở. Công danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí đển thảm hại chạy theo vật chất. Học hành, độ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, con đường lập thân, sự nghiệp ấy sao quá đỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái gì đó lớn lao hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái sức lôi cuốn của tiền tài. Họ chẳng khác nào những con thiêu thân, lao đầu vào nơi có ánh sáng và đông không kể. Qua đây, Cao Bá Quát cho thấy được điểm nhìn tuyệt vời của mình. Đó là cái nhìn bao quát thực tại bình thường, vượt ra cả không gian và vượt lên trên thời gian. Những suy nghĩ ấy đã đi trước thời cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên bác vượt bậc của danh sĩ họ Cao. Cũng có thể thấy được thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan niệm của các sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo con đường này. Trong tâm trí đang tự hỏi mình "tỉnh" hay "say"? Để rồi lại trút tiếng thở dài vô vọng:

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít.
Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.

Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức câu hỏi: "tính sao đây?". Khó khăn tiếp nối khó khăn, nhìn bốn bể, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Lúc này, Chu Thần đã bị đẩy vào "đường cùng". Dường như, trong long đang có sự đấu tranh quyết liệt, ông dậm chân tại chỗ. Cao Bá Quát không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô định. Nhưng có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời. Vì không còn một con đường nào khác cho bất cứ một ai, kể ra những người có chí lớn vượt ra ngoài sự nghiêp công danh. Bi kịch của Chu Thần không chỉ là của riêng Chu Thần, nhưng còn là bi kịch của thời đại, một thời đại sắp đi đến phút cáo chung.

Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho mâu thuẫn nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của con đường "bãi cát" ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình: cái nhìn sáng suốt và đầy đạo đức: từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới. Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn: "Trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi." Quả thật vậy, câu hỏi tu từ: "Anh đứng làm chi trên bãi cát?" như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mỹ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn đời và khiến thế hệ sau nể phục khôn nguôi.

"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là bài thơ ngắn mà dài, hiện thực mà đầy tượng trưng, trữ tình mà đầy bi phẫn với ý thơ hàm súc, đa nghĩa. Ẩn chứ trong tác phẩm là những suy nghĩ kín đáo của tác giả, là tâm tình da diết với đất nước, là khí phách hiên ngang của chí làm trai, là trí tuệ thông thái, là cái nhìn vượt thời gian, là ước muốn cải cách xã hội và cũng là nhân cách cao đẹp của nhà nho chân chính Cao Bá Quát.

Vẻ đẹp nhân cách nhà nho - Mẫu 2

Nguyễn Công Trứ là người có tài có chí có đức. Xuất thân dòng dõi Nho gia, ngay từ nhỏ đã học vỡ lẽ sách thánh hiền, thi cử đỗ đạt và ra làm quan lớn dưới các triều đại của nhà Nguyễn. Ông không chỉ là nhà quân sự, chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ tài năng dùng thơ ca để “tỏ chí” và khẳng định bản thân. Trong các tác phẩm văn chương của ông tiêu biểu nhất là “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện nhân cách nhà Nho chân chính nhưng có nhiều nét khác biệt vượt lên lễ giáo nho gia làm nên một nhân cách mới mang đặc trưng riêng của Nguyễn Công Trứ.

“Bài ca ngất ngưởng” có thể coi là bản tự thuật ngắn gọn, tóm tắt lại cuộc đời và tính cách ông Hi Văn (tên hiệu của tác giả). Ông phô bày giá trị bản thân với thái độ ngang tàn, lối sống thật thà và “ngông” của mình. Qua đó hiện lên nhân cách nhà Nho chân chính có quan điểm sống tiến bộ xứng đáng được người đời ca tụng và học tập.

Vậy nhà Nho họ là ai? Nhà Nho chính là người trí thức thời xưa theo học Nho giáo_ đó là hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử đề ra để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những con người ấy đi theo chuẩn mực luân thường đạo lí thì được gọi là các nho sĩ, nho sinh hay nhà nho. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất đạo đức làm người có trong mỗi chúng ta. Nhân cách ấy làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách nhà Nho chân chính được hiểu như thế nào? Tìm hiểu chi tiết qua tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ thể hiện nhân cách của mình.

Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có “Chí làm trai”. Ngay từ những câu thơ mở đầu ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Tư tưởng ấy rất nhiều lần được ông thể hiện trong các tác phẩm như “Gánh trung hiếu” với câu thơ “Vũ trụ chức phận nội”, hay trong bài “Luận kẻ sĩ” có câu “Vũ trụ giao ngô phận sự” tức đều có nghĩa là mọi việc trong vũ trụ là phận sự của ta. Ý nói đến trách nhiệm của kẻ sĩ đối với cuộc đời. Tư tưởng nhập thế cống hiến cho đời được tiếp nối truyền thống của cha ông như: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đều là các nhà Nho chân chính từ xưa.

Thứ hai, nhân cách nhà Nho chân chính được biểu hiện là con người biết “tu thân” bởi theo quan niệm của nho gia có ba việc “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” mà người nho sĩ phải làm được. Trong “tu thân” thì việc học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Học tập là theo đuổi con đường hoạn lộ công danh. Cũng như bao các nhà nho khác Nguyễn Công Trứ luôn cố gắng thi đỗ để ra làm quan cống hiến tài đức củ mình cho nước cho dân. Điều đó được minh chứng bằng việc ông đã từng giữ nhiều chức quan trong triều được tóm tắt lại bằng bốn câu thơ:

Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Ông đã từng nắm giữ các vị trí quan trọng như Thủ khoa đứng đầu khoa thi Hương tức Giải nguyên, Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ, Tổng đốc Đông đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng tức là người cầm đầu đội quân bình Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu ở kinh đô. Ngoài ra, ông còn có đóng góp khác như: khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, trị thủy ở đê sông Hồng; đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn… Tất cả công việc ấy đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện với tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao. Con đường công danh của ông thênh thang rộng mở cho đến khi ông được ‘Giải tố chi niên”. Ông tự tin khẳng định mình là người “Tài bộ” tức là kẻ có “tài năng lỗi lạc xuất chúng” trong vũ trụ. Theo quan niệm của nho giáo thì dù có tài giỏi đến đâu cũng cần phải khiêm tốn giữ mình nhưng Nguyễn Công Trứ đi ngược lại điều ấy tự tin, mạnh dạn đề cao vai trò của bản thân, thể hiện tài năng của mình phá vỡ bức tường thành của nho gia.

Nhà nho chân chính là những người coi thường danh lợi, không màng vinh hoa phú quý. Lập thân cốt chỉ để giúp vua giúp nước. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy khi triều chính rối ren bao kẻ tranh giành chức tước, hơn thua nhau nhưng họ lựa cho mình con đường cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Công Trứ cũng vậy khi nói về các chức vị của mình ông chỉ dùng những từ cộc lộc, ngắn gọn chứng tỏ ông không phải là người coi trọng công danh, mà tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã từng có một câu nói nổi tiếng: “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. Dù đã giữ nhiều chức quan lớn trong triều nhưng đối với ông cũng thật nhẹ tênh, không có gì quan trọng. Chính điều ấy khiến ông thể hiện mình với cái tôi “Ngất ngưởng” trong toàn bài.

Nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ thật khác thường, khác người làm nên nét độc đáo riêng. Nếu như những nhà nho khác khi đã thi đỗ làm quan thì suốt một đời cố gắng cho hoạn lộ công danh nhưng với ông khi đã làm trọn bổn phận “bề tôi”, trọn phận sự của mình với đất nước ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc. Ông quan niệm “cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”, ông hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có. Ngày xưa các quan lớn đi đâu thường đi bằng ngựa hoặc có kiệu rước nhưng Nguyễn Công Trứ lại ngất ngưởng trên con bò vàng đeo đạc ngựa: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là thế. Người đời có kẻ bảo ông ngông nghênh, lập dị, kẻ lại cho rằng ông cao ngạo coi thường dư luận nhưng đây là một lối chơi ngông khẳng định cái tôi của mình, cho thiên hạ thấy ông đã được “giải tố chi niên”, được tự do thoát khỏi “cái lồng” làm quan tù túng, giam hãm tâm hồn cá nhân tác giả.

Ông cáo quan về ở ẩn với cái cách sống khác, tận hưởng thú vui của mình. Nếu người ta đến chùa là để lễ Phật, cầu may cầu lộc cầu tài thì ông lại đến bày tiệc ca hát, có cả ả đào đàn trống theo sau:

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay Kiếm tay cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

Chỉ với bốn câu thơ cho thấy nhân cách đối lập của nhà nho. Kiếm cung, binh đao mà lại từ bi được sao? Viếng chùa chay tịnh, thanh tục mà lại đem theo ả hầu? Những điều đó tưởng chừng là bất kính, vô lễ nhưng lại khiến Bụt cũng phải cười độ lượng trước ông quan già tính khí khác người.

Ông coi thường danh lợi, chẳng bận tâm đến được mất khen chê ở trên đời mà:

“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục”

Còn người ông ở nơi trần tục mà tâm hồn thoát tục bay vút lên trên cao với âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn. Đối với ông thú vui của bản thân mới là hạnh phúc đáng được quan tâm mọi sự cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê không còn quan trọng, coi nó không tồn tại ở trên đời. Dù cho cuộc vui chơi của ông đang được thực hiện ở nơi cửa Phật, có cả đôi dì theo sau nhưng ông thấy mình vẫn thanh sạch và thoát tục không vướng bận Phật tiên. Những câu thơ trải dài nhịp điệu thênh thang, thanh thoát với cách ngắt nhịp 2/2/2/2 linh hoạt thể hiện được tâm hồn, tấm lòng mênh mông rộng mở, phóng khoáng theo kiểu khác thường của con người đã ngoài vòng cương tỏa.

Ông ngông ghênh tự đặt mình ngang hàng với những danh tài lỗi lạc bên Trung Hoa:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

Ông hành lạc vui chơi với đời nhưng vẫn tự tin khẳng định mình là nhà nho chân chính đã trọn vẹn đạo sơ chung. Ông sống, làm việc và cống hiến hết mình đồng thời cũng biết hưởng lạc, tận hưởng niềm vui mà cuộc đời ban tặng. Câu thơ cuối ông tự tin khẳng định trong triều không có ai được như ông.

Tuy là ngất ngưởng, là ngông nghênh nhưng ông vẫn luôn là một nhà nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cùng với suy nghĩ khác người và có tầm nhìn xa trông rộng như ông là Cao Bá Quát nhân cách nhà nho chân chính cũng được thể hiện trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” Thánh Quát coi thường danh lợi, công danh trong bối cảnh thời đại phong kiến thối nát đang bước vào “cơn hấp hối”, ông coi những kẻ ham danh lợi xưa nay tất tả ngược xuôi bon chen cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon tranh nhau đổ xô đến có mấy ai tỉnh táo để thoát ra được sự cám dỗ. Ông đi trên cát mà cứ nghĩ như mình đang bước trên con đường công danh bị sa lầy, khổ cực. Để rồi nhà nho ấy phải cất lên câu hỏi cuối cùng “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” điều ấy đã lí giải phần nào nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.

Bài ca ngất ngưởng” thể hiện cái tôi ngất ngưởng độc đáo trong tính cách khác thường của Uy Viễn đại nhân. Ông không cột chặt mình vào lễ giáo nho gia, luôn tự do phóng khoáng với thú vui của bản thân. Những gương mặt tiêu biểu của nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã góp phần làm nên bộ mặt mới cho các nho sĩ lúc bấy giờ.

Vẻ đẹp nhân cách nhà nho - Mẫu 3

Bãi cát lại bãi cát dài
Đi 1 bước như lùi 1 bước.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được.

Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Ẩn dụ về con đường duy nhất để "lên đời" trong xã hội phong kiến thối nát. Ngay từ đầu bài thơ ta đã bắt gặp hình ảnh lộ- đồ- con đường. Đường đi trên cát mang ý nghĩa biểu tượng cho con đường đời, con đường ấy dài vô cùng tận, đầy rẫy những khó khăn, chông gai, mờ mịt không biết chọn ngả nào, hướng nào. Để đạt được chân lí của cuộc đời, người ta phải vượt qua muôn ngàn khó khăn

Người đi đường là nhân vật trữ tình, là người kẻ sĩ đi tìm chân lí giữa cuộc đời mờ mịt, hay đó chính là hiện thân của Cao bá Quát

Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Điển tích (SGK có) Đây là lời tự bạch, nỗi cay đắng, những suy nghĩ đầy mâu thuẫn giữa mơ ước khát vọng sống cao đẹp với hiện thực mờ mịt, giữa tinh thần xông pha trên con đường đi tìm lí tưởng với nhu cầu hưởng lạc cầu an lúc bấy giờ, Người đi đường hiểu rằng phải học để đi thi, nhưng khi đỗ đạt làm quan như bao phường danh lợi khác thì học và thi để làm gì? Tác giả những mong mình học được tiên ông cái phép ngủ, cái phép "thụy du" như thái độ Nguyễn Công Trứ

Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Không quan tâm đến người đời nói gì, nghĩ gì, sống thảnh thơi nhàn hạ, vô ưu, thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng.

Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời.

Ý muốn nói với ta rằng cuộc đời đầy những bọn danh lợi chen chúc, chúng mưu sinh, hưởng thụ say sưa và không ai đi cùng mình trên con đường mờ mịt trên cát, chỉ có 1 mình đơn độc biết bao!

Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?

Chuyện mưu cầu danh lợi cũng như chuyện thưởng thức rượu ngon, ít ai tránh được sự cám dỗ

Cách nói ấy nhằm mục đích làm nổi rõ mình với đông đảo những người chạy theo danh lợi và để khẳng định mình không thể hòa trộn với chúng

Cách nói ấy chứng tỏ người đi đường đã tỏ thái độ khinh thường với phường danh lợi. Ông là kẻ cô đơn hông có đồng hành và sự thực ấy làm người đi đường rất cay đắng.

Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng.

Trước hoàn cảnh ấy, người đi đường đặt ra câu hỏi day dứt: Đi tiếp hay dừng lại?

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi !
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Và dĩ nhiên ông đã không dừng lại mà tiếp tục bước đi...

Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột:

Hãy nghe ta hát khúc " đường cùng ",
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phái nam núi Nam, sóng dào dạt.

Người đi đường nhận ra rằng mình không chỉ cô độc trên đường đời mà còn đang đi trên con đường cùng, sự bế tắc trên đường đời, nhìn về phía bắc thì thấy núi non muôn trùng, nhìn về phía nam thì núi sau lưng, sông trước mặt, khó khăn và gian nan, nguy hiểm. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm: người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Đi tiếp hay lùi lại? Tiến thoái lưỡng nan! Người đi đường chỉ còn biết đứng chôn chân trên cát

Anh đứng làm chi trên bãi cát? ( Câu hỏi mở, gần giống với câu: Sống trên đời, kẻ không học thức cả kẻ có học đều tự biến mình thành ra 1 lũ bò sáng ăn, tối ngủ, chỉ khư khư làm theo lời chủ và cây roi. Như Thế có phải là cách sống đúng nghĩa đối với 1 con người?)

=> Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu: trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.

Thêm: Cao Bá Quát đã từng chia trí thức ra làm ba loại, ứng với ba loài chim. Loại thứ nhất là hồng hộc bay giữa trời xanh. Loại thứ hai là hạc đen ẩn mình bên sườn núi. Loại thứ ba là hoàng yến luẩn quẩn ở chốn lâu đài của kẻ quyền quý. Khỏi phải nói con người cả đời chỉ biết bái tạ cành hoa mai như Cao Bá Quát thích loại chim nào và khinh loại nào. ==> Quan điểm của ông ==> Nhân cách của ông

Vẻ đẹp nhân cách nhà nho - Mẫu 4

Phải nói rằng có những nhà thơ, nhà văn mà bóng dáng của họ giờ chỉ là niềm hoài cổ, dĩ vãng xa xưa. Nhưng ngược dòng thời gian, vẻ đẹp tâm hồn của những con người ấy vẫn mãi toả sáng, vĩnh hằng. Chúng ta càng thấm thía hơn điều đó khi đến với”bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát và “bài ca ngất ngưỡng” của Nguyễn Công Trứ- hai tác phẩm thấm đẫm vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính.

Trước hết, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm đều là sự thể hiện quan điểm của mình về con đường danh lợi. Tuy nhiên mỗi người lại có một cách bộc lộ khác nhau về ước mơ thời đại ấy. Cao Bá quát chán ghét thốt lên rằng:

“Bãi cát dài bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”

Phải chăng do quá lận đận với dường danh lợi nên ông đã không mấy khát khao khi nhắc đến nó? Với ông dường như sự nghiệp đậu đạt làm quan là quá gập ghềnh, trắc trở. Nói diều ấy không có nghĩa Cao Bá Quát không có tài mà ngược lại, ông là một người có học vấn uyên thâm. Nguyên ngân chủ yếu làm mất đi một nhân tài đất nước như ông cũng là vì sự suy thoái cử xã hội, sự khủng hoảng của thời đại. Với cách sử dụng hình tượng bãi cát đầy tính gợi hình, và hình ảnh người đi trên bãi cát vô cùng tinh tế, Cao Bá Quát đã miêu tả rất thành công sự mệt nhọc, vất vả của người đi trên con dường danh lợi. Con dường ấy dài lắm, khó đi lắm đến nỗi giọt nước mắt của những người trí thức phải tuôn rơi. Giọt nước mắt đó là tiếng khóc cho sự vất vả, mệt mỏi, giọt nước mắt khóc thương cho biết bao năm đèn sách không là gì cả mà hơn nữa, đó là tiếng khóc của thời đại, tiếng lòng bi thương cho một xã hội suy đồi. Còn đến với Nguyễn Công Trứ, ta lại cảm nhận một suy nghĩ khác:

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”

May mắn hơn Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ rất thành công trong sự nghiệp của mình, nhưng không vì thế mà ông đề cao con đường làm quan. Dường như có một sự tương đồng nho nhỏ trong suy nghĩ của hai nhà nho lớn khi Nguyễn Công Trứ cũng cảm thấy bị gò bó, ép buộc chốn quan trường. Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua từ “vào lồng”. Có lẽ rằng sống trong thời đại đó thì cái đích phấn đấu cuối cùng của nhà nho là một chức quan. Với họ, học là để thi cử, dèn sách là để được vinh danh. Nhưng chúng ta không nên quá phê phán lối suy nghĩ ấy bởi đó là mục đích sống của cả một thế hệ. Nếu như không đi theo con đường ấy, họ sẽ chẳng có một lối rẽ nào khác cả.

Không dừng lại ở đó, cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại một dấu ấn riêng qua Tác phẩm của mình để khẳng định phong cách . Với Cao Bá Quát, phong cách nhà nho chân chính thật sự toả sáng kho ông có quan niệm sống vô cùng tiến bộ.

Con đường danh lợi gập ghềnh đến thế thì bạn hãy tự thoát ra. Một bước đi để đường đời thay đổi, để không còn phải vất vả bon chen, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Đâu phải chỉ có làm quan mới là con đường duy nhất đi tới thành công, hãy chọn cho mình một lối rẽ riêng, không xô bồ, chen lấn.Đừng để vòng xoáy danh lợi nhấn chìm những con người tài giỏi vào hố sâu, dũng cảm bước ra khỏi vòng xoáy ấy mới là quyết định sáng suốt nhất. Cao Bá Quát đã có một quan niệm rất đúng đắn, vượt qua thời đại để hướng con người tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Đó cũng là bước đi đầu tiên để làm thay đổi xã hội, thoát khỏi sự lũng đoàn, suy đồi. Từ đó, Cao Bá Quát đã trở thành một biểu tượng của nhà nho chân chính, rất khác biệt so với các thế hệ trước. Cũng là một nhà nho chan chính, vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua phong cách, bản lĩnh cá nhân của mình.

… “Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nen dạng tằ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”

Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng “ngất ngưởng”. Ông luôn làm những điều khác thường, không giống người trong khi mình là một vị quan trên muôn dân. Không những thế, ông còn khoe khoang tự đại về thành tích, công lao của mình, rồi coi mình cao hơn người khác. Hơn thế nữa, Nguyễn công Trứ còn có một cuộc sống vô cùng tự do,phóng khoáng. Vượt lên cả những lời đồn thổi tầm thường, ông sống mà không để ý đến xung quanh. Một cuộc sông đúng với chính mìn, sống thật với bản thân. Nhưng ông mãi sống trong lòng nhân dân với một hình ảnh vô cùng tốt đẹp, rất đáng kham phục. Cũng bởi vì ông đã công hiến rất nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước, có những tháng ngày sống hết mình vì nhân dân. Cành đáng trân trọng hơn nữa đó là ông đã dám thể hiện cái “tôi” cá nhân của mình. Một cái tôi bản ngã - vượt lên thời đại. Một nhà nho chân chính là người dám nói, dám thể hiện bản lĩnh của mình trước thiên hạ. Và ông đã làm được điều đó, xứng đáng với vị trí của mình trong đất nước.

Đúng vậy, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua 2 tác phẩm “Bài ca ngăn đi trên bãi cát” và “Bài ca ngất ngưỡng” được thể hiện rất thành công. Tuy mỗi người có một phong cách riêng nhưng nó đều đã trỏ thành một nốt nhấn thời đại, trở thành điểm sáng thẩm mĩ trong lòng người đọc bởi ấy là vẻ đẹp biểu tượng của con người Việt Nam trong thời đại dĩ vãng, xa xưa.

download.com.vn