Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng đài - Những bài văn hay lớp 11
Download.com.vn xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng đài đã được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.
Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc sư thiên tài của nước ta ở thời Lê, ông được cho là tác giả phác thảo kiến trúc của Cửu Trùng Đài và cung điện trăm nóc.... Sau khi xây dựng Cửu Trùng đài mà Vũ Như Tô bị quân lính và những người thợ xây dựng Cửu Trùng đài ép chết. Dưới đây là dàn ý chi tiết kèm theo là 4 bài văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng đài, mời các bạn cùng tham khảo và đăng tải tại đây.
Dàn ý phân tích Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng đài
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và tác phẩm Vũ Như Tô: Một tác giả có đóng góp to lớn trên lĩnh vực kịch. Vở kịch Vũ Như Tô là một tác phẩm gây được tiếng vang bởi vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống là một vấn đề mới mẻ
- Giới thiệu nhân vật Vũ Như Tô: Đây là hình tượng nhân vật trung tâm trong vở kịch để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng độc giả
II. Thân bài:
1. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài
- Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài:
+ Ông là người “ngàn năm chưa dễ có một”
+ Tài năng của ông được thể hiện: “chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện lên”, “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”
⇒ Ông là hiện thân cho sự say mê và sáng tạo cái đẹp, tài năng của ông được mọi người công nhận, Đan Thiềm vì tài năng mà ngưỡng mộ ông
2. Là một nghệ sĩ có nhân cách lớn, hoài bão lớn, có lí tưởng nghệ thuật cao cả
+ Ban đầu, dù Lê Tương Dực dọa giết, Vũ như Tô vẫn kiên quyết từ chối xây Cửu trùng đài.
+ Mong muốn và hòa bão của ông chính là xây dựng cho đát nước một tòa lâu đài vĩ đại và bền vững: “bền như trăng sao” để “dân ta nghìn thu còn hãnh diện”
⇒ khát khao cống hiến tài năng cho đất nước
+ Khi đã xây Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô dồn hết tâm sức: “để ta xây một Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở, vài năm nữa Cửu Trùng Đài hoàn thành, cao cả huy hoàng”
- Lí tưởng nghệ thuật của Vũ Như Tô cao cả đến mức, bản thân ông còn tự thấy đời ông “không quý bằng Cửu Trùng Đài” ⇒ Vũ Như Tô đặt đặt lí tưởng, hoài bão của mình lên trên hết
-Vũ Như Tô là người không hám lợi:
+ Khi được vua ban thưởng lụa là, vàng bạc ông đã đem chia hết cho thợ
3. Vũ Như Tô với bi kịch giữa nghệ thuật và đời sống
- Vì quá đam mê và chạy theo lí tưởng nghệ thuật của mình, Vũ Như Tô quên mất rằng chính việc xây Cửu Trùng Đài đã cướp đi mồ hôi, nước mắt và tính mạng của bao nhiêu người
- Lí tưởng, ước mơ xây một toà đài cao cả, nguy nga, tráng lệ lại cao siêu, thuần tuý hoàn toàn thoát li khỏi hoàn cảnh lịch sử xã hội của đất nước, xa rời đời sống nhân dân
⇒ Tâm trạng bi kịch đầy căng thẳng của ông: xây Cửu trùng đài là đúng hay sai? là có công hay có tội?
⇒ Vũ Như Tô là một nhân vật bi kịch bởi đã mang trong mình không chỉ những say mê khát vọng lớn lao mà còn cả những làm lạc trong suy nghĩ và hành động.
⇒ Sự thức tỉnh của ông chỉ diễn ra vào phút cuối khi mà ông và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị đập phá
III. Kết bài:
- Khẳng định nghệ thuật xây dựng nhân vật Vũ Như Tô
- Trình bày cảm nhận bản thân về hình tượng nhân vật
Phân tích Vũ Như Tô trong Vĩnh biết Cửu Trùng đài - Mẫu 1
Nguyễn Huy Tưởng nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch có thiên hướng về các đề tài lịch sử. Thông qua những đề tài này ông đóng góp những quan điểm, tư tưởng mới mẻ về nghệ thuật và cuộc đời. Trong các tác phẩm kịch của ông nổi bật nhất là Vũ Như Tô. Tác phẩm đã khắc họa bi kịch người nghệ sĩ tài ba xong sinh nhầm thời và nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nội dung đó đã được phản ánh chân thực và đầy đủ nhất qua đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
một”. Tài năng của ông có thể “sai khiến gạch đá như tướng cầm quân, có thể xây dựng những lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”. Tài năng của ông là sự trác tuyệt, siêu phàm. Tài năng ấy một lần nữa được thể hiện qua lời Đan Thiềm trong đoạn trích: “Ông mà có mệnh hệ nào thù nước ta không còn ai tô điểm nữa” và bà khuyên Vũ Như Tô hãy trốn đi để không phí “tài trời” ban cho ông.
Không chỉ vậy, ông còn là một trí thức tài năng và có bản lĩnh cứng cỏi, trước lời đề nghị của Lê Tương Dực xây dựng Cửu Trùng Đài ông đã thẳng thắn từ chối, dù tên hôn quân dọa giết nhưng ông không hề sợ hãi. Ông không muốn dùng tài năng của mình để xây dựng nơi cho tên vui độc ác ăn chơi hưởng lạc.
Nhưng ông còn là người đam mê nghệ thuật và khao khát tạo dựng cái đẹp tô sắc cho đời. Trước những lời khuyên của người cung nữ Đan Thiềm, Vũ Như Tô đã đem hết tài năng của mình để xây dựng Cửu Trùng Đài. Lí tưởng của ông thật đẹp đẽ, đáng trân trọng, ông đem hết tài năng của bản thân để xây dựng một lâu đài tráng lệ, có thể “tranh tinh xảo với hóa công” “bền như trăng sao” để tô điểm cho vẻ đẹp của đất nước và là món quà để lại cho hậu thế. Ông dồn sức xây Cửu Trùng Đài bằng mọi giá. Ngay cả khi xảy ra bạo loạn, Vũ Như Tô cũng nhất quyết khống trốn đi để bảo toàn tính mạng cho bản thân. Những lời khuyên của Đan Thiềm với ông đều vô nghĩa lí. Ông vẫn tin tưởng vào việc mình làm không hề phương hại đến ai, việc ông làm giúp ích cho đời. Bởi vậy, cho đến tận lúc bị bắt trói, khi cận kề cái chết, ông vẫn nuôi hi vọng được tiếp tục xây dựng Cửu Trùng Đài. Và cuối cùng nhìn thấy Đài lớn bị thiêu cháy, hoa thành tro bụi, Vũ Như tô coi như đời mình đã chấm hết, ông bình thản ra pháp trường. Đối với ông Cửu Trùng Đài, đứa con tinh thần, nghệ thuật còn quan trọng hơn mạng sống của chính ông.
Nhưng bản thân ông lại sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Xây dựng Cửu Trùng Đài ông vấp phải mâu thuẫn với nhân dân. Để xây dựng được nó cần tiêu tốn biết bao của cải, mà của cải ấy không ở đâu khác chính là Lê Tương Dực vơ vét của nhân dân bằng những thứ thuế má nặng nề, vô lí. Đời sống nhân dân cực khổ, họ bị đẩy vào bước đường cùng. Cửu Trùng Đài cao lên bao nhiêu thì máu xương, mồ hôi của nhân dân phải đổ xuống bấy nhiều, bởi vậy mâu thuẫn, sự căm hận ngày càng bị đẩy lên cao trào. Đặc biệt, Vũ Như Tô vì mục đích hoàn thiện Cửu Trùng Đài mà không ngần ngại hạ lệnh phạt hoặc giết chết những kẻ bỏ trốn để tăng cường kỉ luật làm việc trên công trường. Dần dần Vũ Như Tô biến thành một kẻ ác, là thủ phạm gây nên cuộc sống đau khổ, bất hạnh cho nhân dân.
Đến ngay cả khi cơn biến loạn xảy ra, nguy hiểm cận kề Vũ Như Tô vẫn không nhận ra sai lầm của bản thân, ông vẫn tự nhận thấy công việc của mình quang minh chính đại, ông nguyện sống chết cùng Cửu Trùng Đài, ông tin mình không “làm gì nên tội” và tin vào sự sáng suốt của viên quan An Hòa Hầu. Ông lấy hết lời lẽ để phân trần, để người đời hiểu cái mong mỏi lớn nhất của đời ông. Vậy ông tại sao lại có tội? Làm sao ông có thể trở thành kẻ ác. Nhưng mọi lời ông nói chí khiến cho quân sĩ cười ầm lên, chúng không hiểu mộng lớn, chúng không hiểu những khát khao của ông, họ chỉ biết “mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày hơn oán quỷ”. Vũ Như Tô càng giải thích càng khiến cho bọn chúng điên cuồng hơn. Đến phút cuối cùng ông thét lên tiếng thét kinh hoàng khi biết Cửu Trùng Đài đã bị phá hủy và sự bình thản ông ra lệnh đưa ông ra pháp trường: “Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gí? ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm Ôi Cửu Trùng Đài!... Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường..”.
Kết cục của Vũ Như Tô là tất yếu, bởi Cửu Trùng Đài là một công trình nghệ thuật tuyệt mỹ nhưng không tuyệt thiện nó là bông hoa ác cho nên nó bị hủy diệt, còn Vũ Như Tô từ đầu chí cuối ông chỉ đứng trên lập trường của cái đẹp, của nghệ thuật thuần túy, mà không hề đứng trên lập trường của nhân dân. Ông là một người có tài năng nghệ thuật chứ không phải là một hiền tài. Nhưng việc đưa Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ thiên tài ra pháp trường có thỏa đáng không và đốt phá Cửu Trùng Đài với tư cách là trốn để ăn chơi là hoàn toàn thỏa đáng nhưng đốt Cửu Trùng Đài với tư cách là một công trình nghệ thuật vĩ đại - vinh danh tên tuổi của dân tộc mình có thỏa đáng không. Chính Vũ Như Tô cũng không trả lời câu hỏi này như thế nào. Vũ Như Tô chưa hiểu tội của mình là gì ? Trong những hồi kịch đầu tiên thì Vũ Như Tô luôn luôn đặt ra câu hỏi khẳng định: “Tôi không làm gì lên tội” nhưng đến cuối hồi kịch Vũ Như Tô chuyển từ câu hỏi đấy sang câu nghi ngờ “Ta tội gì”.. Đồng thời, qua bi kịch của Vũ Như Tô cũng thức tỉnh ta mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, đó phải là nghệ thuật vị nhân sinh.
Phân tích Vũ Như Tô trong Vĩnh biết Cửu Trùng đài - Mẫu 2
Trong ba vở kịch: "Vũ Như Tô" (1941), "Bắc Sơn" (1946), "Những người ở lại" (1948) của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng để lại, thì "Vũ Như Tô" là một vở bi kịch mang nhiều ý nghĩa nhất về lịch sử và xã hội, về cái tài và cái tâm, về nghệ thuật và nhân sinh, và cho đến nay, nó vẫn còn mang tính thòi sự làm cho nhiều người phải suy nghĩ.
Vũ Như Tô là một nhân vật lịch sử sống vào dưới triều đại vua Lê Tương Dực, một tên vua mà quần chúng nhân dân thời bấy giờ và các sử gia phong kiến khinh miệt gọi là "vua lợn"! Tên tuổi Vũ Như Tô gắn liền với công trình Cửu Trùng Đài. Cửu Trùng Đài đã bị quân khởi loạn đập phá tan tành, và thủ phạm xây dựng Cửu Trùng Đài đã bị giết chết một cách thảm khốc.
Nhân vật Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có nhiều tài năng, trải qua nhiều thăng trầm, đã sống và chết trong bi kịch. Nhân vật Vũ Như Tô đáng tôn vinh ca ngợi hay đáng thương hại?
Lúc đầu, Vũ Như Tô đã sáng suốt không muốn đem tài năng phục vụ Lê Tương Dực, xây dựng các cung điện để phục vụ cuộc sống xa hoa hưởng lạc của "vua ni nhưng về sau đã bị Đan Thiềm thuyết phục. Trước nhan sắc và sự săn sóc "dịu dàng" của người cung nữ này mà Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ. Ồng Cả đã đem tài năng ra xây dựng Cửu Trùng Đài. Lí tưởng của nhà kiến trúc sư họ Vũ thật đẹp và lãng mạn là quyết đem tài năng xây dựng nên một lâu đài hùng vĩ tráng lệ, có thể "tranh tinh xảo với hoá công", "bền như trăng sao " đem lại vinh dự cho non sông và niềm tự hào cho hậu thế.
Xây Cửu Trùng Đài không phải bằng nước lã. Lê Tương Dực đã ra sức thu vét thuế. Trăm họ lầm than, công khố hao hụt. Cửu Trùng Đài đã làm đổ bao máu, nước mắt, mồ hôi của dân lành. Hàng ngàn hàng vạn quân lính, thợ thuyền phải phục dịch đêm ngày, phải trải qua mưa nắng, phải lao động cực nhọc. Bao nhiêu người đã chết vì đói rét khổ cực. Bao nhiều người đã chết vì tai nạn. Bao nhiêu phu phen bỏ trốn đã bị Vũ Như Tô bắt giết. Vũ Như Tô đã trở thành "thủ phạm", đôi bàn tay của ông ta đã vấy đầy máu!
Hoài bão của Vũ Như Tô thật lãng mạn nhưng vô nghĩa. Vũ Như Tô có biết ông ta đã đem tài năng để phục vụ Sự ăn chơi xa xỉ, cuộc sống sa đọa của vua lợn Lê Tương Dực? Vũ Như Tô có biết xây Cửu Trùng Đài có mang lại lợi ích gì cho nhân dân, hay chỉ làm cho trăm họ lầm than đau khổ? Vũ Như Tô là một kiến trúc sư nhiều tài năng, nhưng sinh bất phùng thòi. Quan điểm nghệ thuật của Vũ Như Tô hoàn toàn sai lầm, vì đó là quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Xây dựng Cửu Trùng Đài là để phục vụ bạo chúa, vị hôn quân, đâu phải vì nhân dân! Khi Lê Tương Dực đã bị Trịnh Duy Sản sa! võ sĩ đâm chết, khi An Hòa Hầu Nguyễn Hoàng Dụ đã đốt phá Kinh thành Thăng Long, sai quân khởi loạn đập phá tan tành Cửu Trùng Đài, nhưng Vũ Như Tô vẫn mơ hồ và u mê. Kẻ sĩ cần có trí. Vũ Như Tô là một kẻ sĩ sống dưới thời loạn, ông ta bị đẩy xuống đáy bi kịch cuộc đời, trở thành một kẻ gàn, kẻ quẫn trí. Đan Thiểm khuyên Vũ Như Tô trốn đi, vì "Ai cũng cho ông là thủ phạm":Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông man di dẩn giận là vì ông, thần nhân trách móc là vị ông. cửu Trùng Đài họ. có cần đâu? Họ dấy nghĩa cốt giết ông, phá cửa Trùng Đài". Nhưng Vũ Như Tô vẫn cho rằng "không làm gì nên tội", thiên hạ "hiểu nhầm mà thôi!
Khi bọn nội giám đòi phanh thây lũ cung nữ làm trăm mảnh, khi quân khởi loạn thét lên: "Bạo chúa đã chết. Còn thằng Vũ Như Tô, đem phanh thây làm trăm mảnh", khi Đan Thiềm giục "trốn đì", nhưng Vũ Như Tô vẫn mơ mộng, u mê cho đó là chuyện vô lí: "Hộ tìm tôi, nhưng có lí do gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù với ai?".
Khi lửa khói đã bốc lên nghi ngút khắp kinh thành, các lâu đài đã bị đốt cháy, khi lưỡi gươm Ngô Hạch đã kề tận cổ, nhưng Vũ Như Tô vẫn gào lên đòi gặp An Hòa Hầu. Đoạn đối thoại sau đây giữa Vũ Như Tô và quân khởi loạn đã phản ánh sự u mê đến cùng cực của ông Cả.
Ngô Hạch- Dẫn thẳng này về trình chủ tướng.
Vũ Như Tô (đầy hi vọng) Dân ta ra mắt An Hòa Hầu, để ta phán trần, để ta giảng giải cho người đời biết rổ nguyện vọng của ta. Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng Đài cổ phải đâu để hại nước? Không, không, Nguyễn Hoàng Dụ sẽ biết cho ta, ta không có tội và chủ tướng các người sẽ cài trói cho ta để ta xây nốt cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở...
Quân sĩ (cười ầm) - Câm ngay đi. Quân điên rồ, câm ngay đi không chúng ông vả vỡ miệng bây giờ. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày hơn oán quỷ. Câm ngay đi!
Vũ Như Tô - ...Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai...
Quân sĩ - Câm mồm!
Thậm chí khi bị quân khởi loạn xúm vào vả miệng, điệu ra pháp trường, nhưng Vũ Như Tô vẫn gào lên đòi ra mắt chủ tướng, muốn nói chuyện với An Hòa Hầu. Khi quân khởi loạn cho biết chính An Hòa Hầu đã ra lệnh "phát hoả" kinh thành, đập phá Cửu Trùng Đài, nhưng Vũ Như Tô vẫn cho răng đó là điều vô lí, rồi cất lời than: "Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài" khiến cho đám quân sĩ khinh bỉ hói: "Giống vật không biết nhục í"
Tiếng kêu thảm thiết của Vũ Như Tộ đúng là tiếng kêu tuyệt vọng của một kẻ cuồng sĩ mất trí: "Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gí? ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm Ôi Cửu Trùng Đài!... Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường..".
Kẻ sĩ thì phải biết xuất xử. Vũ Như Tô chỉ biết cúc cung phục vụ hôn quân bạo chúa. Vì thế ông ta bị bọn thái giám, lũ cung nữ coi khinh là "gian phu dâm phụ", vì gian díu với Đan Thiềm, "làm uế tạp nơi cung cấm ". Khi Đan Thiềm đã bị quân khỏi loạn dẫn ra pháp trường, khi tử thần đã gõ cửa, nhưng Vũ Như Tô vẫn còn lên giọng: "Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ". Thật là bi hài!
Cuộc đời của Vũ Như Tô là những trang dài bi kịch. Cái chết của Vũ Như Tô đã phản ánh cuộc đời của người nghệ sĩ này thật bi thảm và đáng thương hại. Hoài bão thì cao xa mà viển vông, vồ nghĩa. Tài năng chỉ để phục vụ cuộc sống xa hoa của bạo chúa. Quan điểm nghệ thuật thì mơ hồ sai trái: đem nghệ thuật đối lập với hiện thực cuộc sống, đối lập với hạnh phúc của muôn dân, coi thường tiền của, máu và mồ hôi của quần chúng. Cửu Trùng Đài không phải là một kì công "Vì dân, do dân và của dân".
Phân tích Vũ Như Tô trong Vĩnh biết Cửu Trùng đài - Mẫu 3
Nguyễn Huy Tưởng một nhà tri thức giàu lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, ông nổi bật với thiên hướng khai thác đề tài lịch sử nổi bật đặc biệt là kịch lịch sử. Là một con người yêu nước, yêu mến trân trọng lịch sử dân tộc nên các tác phẩm của ông được nhân dân đón nhận. Tác phẩm “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là một tác phẩm thành công khi ông khắc họa rõ nhân vật Vũ Như Tô. Vũ Như Tô là một người tài giỏi, yêu nước muốn cống hiến cho quê hương đất nước nhưng lại hơi mù quáng với hoài bão của mình.
Nhân vật Vũ Như Tô là người có hoài bão, lí tưởng, nhưng cũng rất loạn lạc bướng bỉnh. Ông là một người có tài được ví như thiên tài nghìn năm, có công xây tòa đài và vảy bút vài nét. Bằng bút pháp lãng mạn lí tưởng hóa để ngợi ca trân trọng, mơ mộng khát khao của nhà văn về cái đẹp, cái tài. Vũ Như Tô vừa là nhân tài mà vừa là thiên tài khó ai có thể sánh nổi. Ông là người có khát vọng hoài bão xây Cửu Trùng Đài là để tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công. Câu văn dài, nhịp văn ngắn nhanh hơi dồn dập, giọng sôi nổi hùng hồn tràn đầy say mê nhiệt hứng của một người thiết tha cái đẹp. Vũ Như Tô trong hoài bão tìm được sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng cá nhân và cộng đồng. Như Tô sống trọn vẹn với đam mê lại vừa có cơ hội tỏ lòng tận hiếu với dân, tận trung với nước. Trên thực tế, hoài bão của Như Tô không đạt được và chỉ có thể đạt được trong một điều kiện xã hội khác khi được nhân dân được đảm bảo nhu cầu thưởng thức cái đẹp được chú ý đặc biệt mối quan hệ giữa thế lực cầm quyền với nhân dân được tôn trọng, bình đẳng. Nhưng trên thực tế, khát vọng đấy lại là ảo tưởng ảo vọng bởi xây Cửu Trùng Đài mà vua xa xỉ, ngân khố hao hụt, nhân dân lầm than man di oán giận thần linh oán trách. Và vì thế Vũ Như Tô được coi là kẻ thù của mọi người trở thành tội đồ bị oán hơn oán quỷ.
Nhưng là một người luôn nghĩ cho dân cho nước nên Như Tô không nghĩ nhiều đến thế cứ tưởng hành động của mình là đúng không hiểu điều đó là mơ tưởng thiếu thực tế, chính sự mơ mộng ấy khiến Như Tô đi hết từ lầm than này đến lầm than khác bướng bỉnh chống lại số phận. Như Tô đứng trên lập trường cái đẹp mà chứa đựng lập trường cái thiện, mới nhìn quang minh chính đại bản thân mà chứa nhìn lợi ích nhân dân bị thiệt hại. Chính sự ảo tưởng lầm lại ấy đã khiến Vũ Như Tô phải chịu một kết cục đáng thương. Kinh biến, khuyên Như Tô đi chốn nhưng ông lại không đi vì cho rằng việc mình làm là đúng không có gì phải trốn chạy mình quang minh chính đại. Lúc đó kinh thành như một chảo dầu sôi, thợ theo quân đốt Cửu Trùng Đài, vua bị giết, hoàng hậu cung nữ cùng đại thần trong triều đều bị bắt. Vũ Như Tô bị dọa phanh thây Đan Thiềm thúc giục khóc lóc khuyên Như Tô đi trốn nài nỉ nhưng Vũ Như Tô nhất khoát không theo. Ông nhất quyết sống với Cửu Trùng Đài, chết với Cửu Trùng Đài , đời ta không có gì quý bằng Cửu Trùng Đài. Thợ thuyền quân lính đốt Cửu Trùng Đài vô lí bởi ông với họ không có oán thù gì. Một con người như thế làm ta không khỏi bồi hồi xúc động. là một con người đắm say thiết tha với cái đẹp, nhưng lại có một mơ mộng ảo tưởng.
Vũ Như Tô từng tranh tinh xảo với hóa công, giờ còn phải đấu tranh với số phận Như Tô càng đắm say với nghệ thuật thì càng dời xa cõi thế, càng sâu sắc bao nhiêu lại càng nông nổ bấy nhiêu giữa chốn trông gai trường đời hiểm hóc. Đan Thiềm bị lôi đi thì Như Tô vẫn hi vọng, phân trần với An hòa hầu kẻ đốt Cửu Trùng Đài tận mắt chứng kiến cảnh Cửu Trùng Đài Như Tô đau đớn kinh hoàng thốt lên “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài” Câu văn ngắn được ngắt ra thành câu cảm than như tiếng nấc như đứt từng đoạn trường.Cho đến phút cuối cùng cuộc đời Như Tô đau đớn vì mộng lớn, vì tri kỉ, vì cái đẹp. Lời than toa sáng phẩm giá người chiến sĩ những cũng nói lên rất nhiều về bi kịch. Vũ Như Tô đại diện cho những người vì cái đẹp vì nước vì dân xây dựng quê hương nhưng vì sai thời điểm cũng như hoàn cảnh mà ông sống mà đã tạo nên một bi kịch đau lòng cho Như Tô mà đáng ra ông không phải nhận. Một con người như thế đáng thương hơn là đáng trách.
Tác phẩm với việc khắc họa thành công nhân vật Vũ Như Tô đã làm bật lên rõ nét những đặc điểm của xã hội bấy giờ vua quan ăn chơi sa đọa, đời sống người dân khổ cực đất nước ngày càng khó khăn. Vũ Như Tô chính là đại diện cho những người tài với lòng yêu nước, tinh thần cống hiến cho quê hương đất nước.
Phân tích Vũ Như Tô trong Vĩnh biết Cửu Trùng đài - Mẫu 4
Từ một sự kiện lịch sử có thật ở thế kỉ XVI, Nguyễn Huy Tưởng đã hư cấu, sáng tác vở kịch Vũ Như Tô, một vở kịch hiện đại có yếu tố bi kịch, đặt ra vấn đề có tầm quan trọng: số phận của nghệ thuật và của người nghệ sĩ trong hoàn cảnh đất nước bị chìm đắm trong chế độ phong kiến thối nát.
Nhân vật trung tâm của vở kịch là người nghệ sĩ tài ba ngàn năm chưa dễ có một Vũ Như Tô. Người kiến trúc sư thiên tài này có lí tưởng nghệ thuật, ham mê Cái Đẹp và khao khát sáng tạo Cái Đẹp nhưng không nhận thức được mâu thuẫn giữa lí tưởng nghệ thuật và hoàn cảnh thực tế của nhân dân đang bị đày đọa, giết hại trong việc xây Cửu Trùng Đài nên cuối cùng phải trả giá bằng sinh mệnh bản thân thật bi thảm.
Vở kịch gồm năm hồi. Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có nhân cách, có lí tưởng nghệ thuật, không phải là người ham sống sợ chết hoặc hám lợi. Lúc đầu thà chết không xây Cửu Trùng Đài cho hôn quân; sau đó, khi xây đài, được nhà vua thưởng vàng bạc, lụa là, ông đem chia hết cho thợ. Nhưng Vũ Như Tô quá say sưa với ước mơ xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vĩnh cửu đến quên cả thực tế: dân chúng đang đói khổ, đang bị giai cấp thống trị bòn rút mồ hôi, nước mắt và xương máu để xây Cửu Trùng Đài. Trong khi đó, bọn thống trị mục nát mâu thuẫn nhau, xâu xé nhau kịch liệt. Mâu thuẫn này đến hồi cuối đã lên tới đỉnh điểm và giải quyết dứt điểm. Hôn quân Lê Tương Dực bị giết. Cùng lúc, Cửu Trùng Đài bị chính bọn thợ xây dựng nổi loạn đập phá và Vũ Như Tô bị giết chết. Đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là hồi cuối cùng, cũng là cao trào kết thúc vở kịch.
Tính cách nổi bật nhất của Vũ Như Tô là tính cách của người nghệ sĩ tài ba, hiện thân cho niềm khát khao và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong một hoàn cảnh cụ thể, Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm, nó sang trọng, siêu đẳng, thậm chí "cao cả và đẫm máu" như một "bông hoa ác". Vì thế, đến tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình. Ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
Xây đài Cửu Trùng là đúng hay sai? Vũ Như Tô không trả lời được thỏa đáng câu hỏi đó, bởi ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường Cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện. Hành động của ông không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt. Vũ Như Tô đã từng tranh tinh xảo với hoá công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải - trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đấu tranh này thể hiện qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
Trong hồi cuối của vở kịch, Vũ Như Tô lâm vào trạng thái khủng hoảng - chỉ một người duy nhất hiểu được Cái Tài siêu việt của Vũ, là Đan Thiềm. Đây là sự vỡ mộng thê thảm.
Vũ Như Tô vẫn không thể thoát ra khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng của chính mình. Ông không tin rằng, công trình cao cả mình làm lại có thể xem là tội ác, cũng như không thể tin sự quang minh chính đại của mình lại bị rè rúng, nghi ngờ. Sự vỡ mộng của Vũ Như Tô vì thế đau đớn, kinh hoàng gấp bội so với Đan Thiềm. Nỗi đau ấy bộc lộ thành tiếng kêu bi thiết và âm điệu não nùng, khắc khoải chẳng những trở thành âm hưởng chủ đạo bao trùm đoạn kết đã đành, mà còn là một thứ chủ âm dội ngược lên toàn bộ những phần trước của vở kịch. "Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!". Đó cũng là những tiếng kêu cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa oan nghiệt đang bùng bùng thiêu rụi Cửu Trùng Đài, ngay sau đó tác giả của nó bị dẫn ra pháp trường. Trong tiếng kêu ấy, mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài đã được Vũ Như Tô đặt kế tiếp nhau, nỗi đau mất mát như nhập hòa làm một, một nỗi đau bi tráng tột cùng.
Khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô có phần chính đáng, cao đẹp, xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc nhưng đã đặt lầm chỗ, lầm thời (giai cấp thống trị lúc đó quá xa hoa thối nát, nhân dân đang đói khổ vì sưu thuế, tạp dịch, tham nhũng) và xa thực tế, dẫn đến phải trả giá bằng sinh mệnh của bản thân và cả công trình nghệ thuật.
Trong việc xây Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là tội nhân, vừa là nạn nhân. Tội nhân vì thực thi chủ trương của hôn quân, làm cho nhân dân thêm khổ cực, là nạn nhân vì ảo tưởng của chính mình, nạn nhân của mối mâu thuẫn chưa giải quyết được: mâu thuẫn giữa lí tưởng nghệ thuật và hoàn cảnh thực tế.
Bằng một ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao, nhất là trong hồi cuối của vở kịch Vũ Như Tô, tác giả đã dẫn dắt hành động xung đột kịch rất thành công, tạo nên một bức tranh đời sống bi kịch hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó. Đặc biệt là việc khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng qua nhịp điệu lời nói - hành động bằng ngôn ngữ tổng hợp (miêu tả, kể, bộc lộ...) mang tính hành động cao, đã thể hiện thành công nhân vật trung tâm Vũ Như Tô của vở kịch lịch sử cùng tên.
...............
Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!