Bài văn mẫu lớp 12: Bài viết số 6 (Đề 1 đến Đề 3) - Bài viết số 6 lớp 12

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 466,1 KB
Lượt tải: 137
Nhà phát hành: Sưu tầm


Chia sẻ cùng các bạn về Bài văn mẫu lớp 12: Bài viết số 6 (Đề 1 đến Đề 3): Bài tập làm văn mẫu Lớp 12 số 3 là tài liệu tham khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài viết của mình. Sau đây, mời quý thầy cô giáo và các em cùng tham khảo.

Nội dung chi tiết:

Download.com.vn xin gửi đến các em học sinh những bài văn mẫu cho bài viết số 6 môn tập làm văn lớp 12. Các bạn học sinh có thể tham khảo để lấy ý tưởng cho bài làm của mình.

Những bài văn mẫu lớp 12 dưới đây được sưu tầm và tổng hợp từ những bài làm hay nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Hi vọng, đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các bạn bổ sung thêm nhiều ý tưởng hay cho bài tập làm văn của mình thêm phần phong phú và đặc sắc.

Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 6 - Đề 1

Đề 1: Phân tích ý tưởng của Nguyễn Thi được thể hiện qua lời nói của nhân vật chú Năm: Chuyện gia đình ta… biển mà biển

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca. ông còn có bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn. Nguyễn Thi quê ở Quần Phương Thượng, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, nhưng ông vào Sài Gòn từ nhỏ. Năm 1955, ông tập kết ra Bắc. Năm 1962 ông trở lại miền Nam, hoạt động trong lực lượng Văn nghệ giải phóng với bút danh Nguyễn Thi. Ông đã sống gần gũi và gắn bó với con người miền Nam. Do đó, những sáng tác của ông đều phản ánh khá chân thật và sinh động cuộc sống và tính cách của con người miền Nam - những con người hồn hậu, chân chất trong cuộc sống đời thường nhưng có lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc, luôn giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh cho đất nước. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nói về vẻ đẹp của con người miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ là truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. Trong truyện ngắn này, một ý tưởng của Nguyễn Thi được thể hiện qua lời nói của nhân vật chú Năm: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc để ghi vào đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông gia đình ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm”.

2. Thân bài

Ý nghĩa của nhan đề và nội dung của câu truyện: Đúng như tên gọi của thiên truyện ở đây, Nguyễn Thi đã dựng lên hình tượng những con người trong một gia đình lớn; gia đình cách mạng. Họ gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, người nào cũng đáng yêu, đáng quý, người nào cũng có bản chất riêng, nhưng lại thống nhất với nhau về bản chất. Những đặc điềm chung ấy là: lòng căm thù giặc sâu sắc, hành động dũng cảm, gan góc trong chiến đấu, niềm say mê và khao khát được đánh giặc, rất tình nghĩa, rất đỗi thủy chung với gia đình, Cách mạng và Tổ quốc. Có thể kể đó là những nhân vật như chú Năm, mẹ Việt và đặc biệt là hai chị em Chiến và Việt.

Những khúc sông của dòng sông truyền thống: Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, ta thấy một tư tưởng được cô đúc lại trong toàn bộ thiên truyện đã thể hiện trong câu nói của chú Năm với chị em Chiến và Việt: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc để ghi vào đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm”. Câu nói của chú Năm có vẻ văn hoa, mang tính chất triết lí nhưng rất thực tế. Đó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, yêu cách mạng từ đời này qua đời khác. Mỗi thành viên trong gia đình chú Năm là một khúc sông, để tạo nên dòng sông truyền thống ấy: “Trăm sông đổ về một biển" hay cũng chính là dòng sông truyền thống của gia đình chú Năm sẽ đổ về một xã hội lớn hơn, hòa trong biển lớn cách mạng của đất nước.

Thật vậy, gia đình chú Năm là một gia đình cách mạng, mang nặng thù nhà, nợ nước. Ông nội của Chiến và Việt bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng, bà nội bị lính quận Sơn hành hạ, đánh đập. Ba của Chiến và Việt thì bị chặt đầu, má thì bị trái ca-nông của Mỹ giết chết khi đi đấu tranh ở Mỏ Cày, thím Năm thì bị giặc bắn bể xuồng chết khi đi rọc lá chuối... Những người thân trong gia đinh lần lượt bị sát hại. Những đau thương, mất mát này được chú Năm ghi lại một cách tỉ mỉ trong một cuốn sổ tay, để làm nên những khúc sông trong dòng sông truyền thống gia đình. Trong những khúc sông ấy có chú Năm, ba Chiến, mẹ Chiến, đặc biệt được kết thúc một cách ào ạt hơn, mãnh liệt hơn, hào hùng hơn ở Chiến và Việt.

Những nhân vật chính làm nên những khúc sông

a) Chú Năm: Chú Năm là một con người nghĩa khí, chất phác, bộc trực nhưng thâm trầm, sâu sắc, giàu tình yêu thương, gắn bó thủy chung với cách mạng, luôn luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, ghi chép truyền thống, giữ gìn và phát huy truyền thống. Chất truyền thống nơi chú phảng phất tính chất đạo lí cổ truyền từ ngàn xưa của dân tộc “gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Chú ghi chép gia phả của dòng họ một cách rất tỉ mỉ, từ những sự việc xảy ra đến những ngày giỗ của từng người trong gia đình và những chiến công của Việt và Chiến trên sông Định Thủy, tỉ mỉ đến độ “thỏn mỏn". Lời lẽ chú mộc mạc, “nét chữ lòng còng", nhưng đấy là tất cả tấm lòng của chú, tình yêu thương lẫn căm thù của chú và đó còn là ý thức giữ gìn truyền thống cho gia đình của chú nữa.

Chú Năm tuy chưa già nhưng mái tóc đã đốm bạc. Trước kia chú sống bằng nghề sông nước, “đi chèo ghe mướn ở Sài Gòn, Lục Tỉnh". Chú thường kể chuyện cho chị em Chiến, Việt nghe và "chú hay kể sự tích của gia đình và cuối cùng câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu”. Những câu hò của chú “nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này". Hình như chú muốn gửi gắm tất cả tấm lòng, bao điều tâm sự và mong ước của chú vào Việt qua tiếng hò: “Lúc đó, gân cổ chú nổi đỏ lên, tuy chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, làm như Việt là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó, hoặc chính Việt là những câu hò đó. Theo từng câu hò, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành những nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng Tháp Mười”.

Những lần như thế, chị Chiến “bịt miệng cười nhìn chú, Việt cũng vậy" và có một lần chú bảo với Chiến và Việt “Cười đi con, ráng cho mau lớn. Chừng nào bây trọng trọng, tao giao cuốn sổ này cho chị em bây”.

Những hành động, những câu nói ấy của chú Năm đã thể hiện rõ những tình cảm cao đẹp của chú, nhất là chú muốn luôn luôn giữ gìn truyền thống gia đình.

b) Má của Chiến và Việt:

Má của Chiến và Việt là hình tượng nhân vật điển hình cho người phụ nữ Việt Nam “anh hung, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Má Việt cũng là hình ảnh khúc sông truyền thống gia đình. Đây là hình ảnh một người mẹ không hề yếu đuối mà thật chắc khỏe về thể xác lẫn tinh thần. Hình như người mẹ ấy sinh ra để chống chọi với bao sóng gió của cuộc đời và trong chiến đấu. Nguyễn Thi đã miêu tả những nét tính cách ấy của người mẹ khá cụ thể: “Má bơi xuồng thiệt khỏe, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách mướt để lộ cái gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng. Chiều về, xuồng còn giữa sông, má đã gọi: “Việt à, ra phụ má nghe con!”, xuồng cập bến, mặt má vẫn đỏ rực, cái nón rách đã ngả ra làm quạt, lưng áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lụi không còn thấy bạc nữa”.

Ở má Việt, tình yêu chồng, lòng thương con, sự căm thù, lòng dũng cảm, ý thức đấu tranh như hòa quyện vào nhau. Điều đó đã thể hiện khá đầy đủ trong lời má Việt nói với Việt: “Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua sông, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ. Chị hai mày đang nấu cơm, cũng mang cả đũa bếp chạy theo, tóc tai xuống mặt, chỉ ló có một con mắt ra nước mắt chảy ròng ròng. Mày với con Chiến thì chạy theo chị hai mày mà la: "Trả đầu ba! Trả đầu ba!". Tao muốn là cho chị em bây ở nhà. Đi mình tao, tao chửi nó, nó có bắn thì cũng còn chị em bây trả thù cho ba mày. Mỗi lần nó bắn đùng đùng trên đầu, chị em bây lại níu chân tao. Lòng dạ tao đâu còn rảnh để mà sợ, mà khóc, chỉ thương con thôi”. Mất chồng, má xót xa lặng lẽ khóc trong đêm, nhớ lại những kĩ niệm với chồng từ lúc hai người mới quen nhau tới khi chồng chết. Rồi người mẹ ấy cũng trông cho con mau lớn để làm một cái gì đó vui lòng chồng và “dường như cả cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ đã trải qua một cách không hề sợ hãi đó, tất cả đều được gom lại và dồn vào trong ý nghĩ cuối cùng này”. Đau đớn xót xa nhưng người mẹ ấy không hề bi lụy, biến đau thương, căm thù thành ý thức đấu tranh và đã chết trong đấu tranh. Ở nhân vật này, nhà văn Nguyễn Thi đã khắc họa nổi bật hình tượng người phụ nữ miền Nam với đầy đủ những phẩm chất đạo đức tốt và anh hùng. Đó là tượng đài bất tử của người mẹ Việt Nam.

c) Chiến: Chiến rất giống mẹ ở tính gan góc, chăm chỉ, đảm đang, tháo vát, rất yêu thương cha mẹ, sôi sục căm thù, muốn gia nhập bộ đội để trả thù cho cha mẹ. Biết thu xếp việc nhà trước khi lên đường: đem bàn thờ má gửi chú Năm... Chiến có một ý thức, một quyết tâm cao trong chiến đấu. Câu nói của Chiến với Việt đã thể hiện rõ ý thức và tinh thần ấy của Chiến: "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!".

Cho dù vẫn cho mình là chị (rất thương em và lo lắng cho em, nhường nhịn em tất cả) nhưng nhiều lúc Chiến vẫn mang tính trẻ con (tranh công bắt ếch, tranh công bắn tàu giặc trên sông Định Thủy, tranh phần nhập ngũ của em...).

Chiến là hình ảnh kế thừa của người mẹ, lại tiếp khúc sông truyền thống của gia đình, không làm phụ lòng mẹ. Chiến đã tiến xa hơn một bước so với mẹ. Chiến được cầm súng đi đánh giặc, cái điều mà mẹ Chiến chưa có được.

d) Việt: Việt là một cậu con trai mới lớn, ngây thơ và hiếu động. Việt đã tiến xa hơn thế hệ của ông cha mình. Lúc nhỏ Việt rất gan lì, đúng như lời nhận xét của chú Năm: “Việt là một thằng nhỏ nhưng rất gan lì”. Trước nỗi đau mất cha, cậu bé Việt không còn biết sợ hãi là gì, Việt đã đi theo má mà la: “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, rồi khi thằng giặc liệng đầu ba vào ngực mẹ, làm máu me văng cùng đầu chị em Việt. “Đầu ba ở dưới không lượm" mà Việt “cứ nhè cái đầu thằng liệng đầu mà đá”. Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh địch trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm mà cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kì này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chừng nào tôi mới bị".

Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý trí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sao khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mĩ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp người nước hay máu không biết. Chỗ ướt, chỗ sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng", “người Việt khô khốc", “chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vãi trấu... ”, thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội “Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cái tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt nó phải đi". Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến... tỉnh ra, Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: “Được, tao cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ các anh sẽ tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là 1 hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn trước khi đổ về biển cả.

3. Kết bài

Tóm lại, câu nói của chú Năm với hai chị em Chiến, Việt: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc để ghi vào đó. Trăm sông đổ về một biển, con sóng gia đình ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm”... là câu nói thể hiện toàn bộ ý tưởng của Nguyễn Thi trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. Ý tưởng này không chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, mà còn có ý nghĩa khái quát, rộng lớn hơn. Đó là cả một đại gia đình cách mạng miền Nam trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Câu nói này của chú Năm nói riêng và toàn bộ nội dung câu chuyện nói chung đã cho ta hiểu thời kì chống Mỹ ở miền Nam là một thời kì gay go, quyết liệt, nhân dân miền Nam phải sống trong đau khổ với biết bao hi sinh mất mát dưới sự đàn áp dã man của quân thù. Nhưng tinh thần yêu nước, yêu chân lí cách mạng, ý chí quật khởi của nhân dân miền Nam dưới ánh sáng của lí tưởng cách mạng đã bùng lên mãnh liệt, không sức gì ngăn nổi. Đó chính là truyền thống gia đình, truyền thống cách mạng, góp phần làm nên bề dày truyền thống của dân tộc.

Bài làm tham khảo

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.

Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình - quê hương - cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.

Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.

Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đó còn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.

Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.

Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến.

Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 6 - Đề 2

Đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

Dàn ý chi tiết

A. Người lái đò Sông Đà

I. Mở bài:

- Giới thiệu về đề tài sông Hương

- Giới thiệu Hoàng Phủ Ngọc Tường và bái bút kí

- Giới thiệu sông Hương – biểu tượng của cố đô

- Tham khảo mở bài của bài làm đề này trong mục Cảm thụ.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung tác phẩm

- Tác phẩm được sáng tác tại Huế năm 1981

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” rút ra từ tập bút kí cùng tên, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường, lấy cảm hứng từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế để từ đó nhà văn bày tỏ tình yêu đất nước con người.

- Đánh giá nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

+ Có thể nhắc đến sông Xen, dòng sông đẹp nhất của thủ đô Pa ri để dẫn tới lời nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở câu mở đầu đoạn trích: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước….một thành phố duy nhất”.

+ Đánh giá: Nhận xét mang đậm tính chủ quan của nhà văn. Thể hiện nét độc đáo sông Hương, uyên bác, tự hào.

2. Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương

- Sông Hương ở thượng nguồn.

- Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.

- Sông Hương khi chảy vào lòng thành phố.

- Sông Hương rời thành phố Huế.

3. Sông Hương nhìn ở góc độ văn hóa thi ca

- Sông Hương sinh thành toàn bộ nề âm nhạc cổ điển Huế: “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại…mái chèo khuya”.

- Nguyễn du đã lấy cảm hứng từ điệu “Tứ đại cảnh” và thi hào từng bao lần lênh đênh trên quãng sông này: “Nguyễn Du…trăng sầu”

- Sông Hương là dòng sông thi ca, là cảm, hứng bất tận cho các nhà văn nghệ sĩ.

- “Dòng sông trắng-lá cây xanh” trong cái nhìn của Tản Đà

- ”Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát

4. Sông Hương trong cái nhìn của lịch sử dân tộc

- Sông Hương trở thành dòng linh giang của tổ quốc, chứng nhận lịch sử cho bao sự kiện thăng trầm của dân tộc, sông Hương là dòng sống của thời gian ngân vang của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.

+ Trong sách Dư địa lí của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt.

+ Sông Hương sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.

5. Ai đã đặt tên cho dòng sông?

- Kết thúc bài kí bằng một câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

- Chính bài bút kí này đã trả lời cho câu hỏi ấy.

-> Nhà văn bộc lộ cảm xúc và sự ngạc nhiên thú vị vủa mình trước cái duyên thật đẹp giữa Huế và sông Hương. Cũng để tạo ấn tượng trong người đọc.

III. Kết bài

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác phẩm văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Với xúc cảm sâu lắng được tổng kết từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, đại lí, văn chương và một văn phong tao nhã, nhà văn đã tái hiện thành công vẻ đẹp con sông Hương - công trình nghệ thuật thiên tạo mà hóa công đã ưu ái ban tặng cho con người và xứ Huế mộng mơ.

B. Người lái đò sông Đà

1. Giới thiệu khái quát

- Người lái đò sông Đà in trong tập tùy bút sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân là kết quả của chuyến đi thực tế của ông ở vùng Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó với đất nước quê hương và kính trọng người lao động của tác giả.

- Hai hình ảnh nổi bật trong bài tùy bút là ông lái đò và dòng sông Đà. Sông Đà được mô tả như một sinh thể có linh hồn, như một nhân vật có tính cách với hai đăc điểm nổi bật: hung bạo (ở thượng nguồn) và trữ tình (ở hạ lưu).

- Tùy bút Người lái đò sông Đà thể hiện một nét phong cách của Nguyễn Tuân: tính uyên bác với nhiều phát hiện tinh tế độc đáo về núi sông, cây cỏ trên đất nước ta.

2. Phát hiện tinh tế độc đáo thứ nhất: Sông Đà hung bạo

a. Con Sông Đà hung bạo với 73 cái thác hiểm nghèo ở thượng nguồn. Tác gia đã nghiên cứu công phu xem con sông Đà bắt nguồn từ đâu, xa xưa trong lịch sử có những tên gọi gì, có bao nhiêu thác ghềnh. Đoạn sông Đà ở thượng nguồn, lòng hẹp, bờ là những vách đá dựng đứng được mô tả bằng hình ảnh vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu,.. Có khi là những hình ảnh so sánh mới lạ đến bất ngờ: Ngôi trong khoang đò qua quãng ấy... cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nên vừa tắt phụt đèn điện.

b. Sông Đà như đang náo động, gào thét luôn muôn vạn âm thanh: quãng mặt ghềnh Hát Loáng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm,.. Nhà văn đã sử dụng chọn lọc những hình ảnh nhân hóa để làm sống dậy một cách dữ dội hình thù nhừng hòn đá vô tri: một hòn trông nghiêng thì y như là hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến Một hòn khác... thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Những hòn đá ngỗ ngược trên dòng sông gần như phục sẵn, nhất tề nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, đòi ăn chết cái thuyền...

c. Sông Đà như một trùng vi thạch trận với đủ cả cửa sinh cửa tử, với những binh đoàn của đá, của sóng, của xoáy hút, với những boong-ke, pháo đài, với những đòn âm, đòn tỉa đánh vào chỗ hiểm. Thác sông Đà có lúc rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giũa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

3. Phá hiên tinh tế độc đáp: Sông Đà trữ tình

a. Khi bộc lộ tính cách trữ tình, con sông Đà lại là một dòng sông đầy thơ mộng hiền hòa.

- Dòng sông thơ mộng được mô tả từ trên cao: Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc...

- Nước sông thay dổi tùy mùa tiết: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ...

b. Con sông hiền hòa, có những quãng ven sông lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng Lặng tờ đến thế mà thôi...

Với mỗi người, mỗi trạng thái, sông Đà khơi gợi sự cảm nhận khác nhau: Có khi như một cố nhân, có khi bờ sông Đà hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đúng là “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”

c. Nét hiền hòa của con sông làm cho cảnh vật trở nên gợi cảm, làm cho khách trên con đò chợt mơ màng như nghe tiếng con hươu đang thủ thỉ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương (...)” của một chuyến xe lửa đầu tiên, trong tưởng tượng của tác giả.

Bài tham khảo mẫu 1

1. Người lái đò sông Đà

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.

Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình : “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này...”.

Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”.

Hình ảnh bình thường của người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên ngang hàng danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác giả tô đậm nét hơn ở ông lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng dữ, thì "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình". Đây mới chính là ông lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân.

Con người chiến đấu với sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác", nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ những "cá anh vũ, cá dầm xanh", những hầm cá hang cá "túa ra đầy tràn ruộng". Sông Đà dữ thì có "diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một", nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp nên thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.

Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa"...

Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một "cố nhân". Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi: "Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".

Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà.

Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọ

2. Ai đã đặt tên cho dòng sông

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế.

Vẻ đẹp dòng sông Hương ở thượng nguồn hóng khoáng và man dại

Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v...Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế

Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như 'một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn'. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: 'mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn', nhưng cũng có lúc lại 'dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một 'cô gái Digan, phóng khoáng và man dại', bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa.

Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố

'Sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa ,xứ sở', dòng sông duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế.Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa, lịc sử, tác giả miêu tả dòng sông thật sinh động vói cảm nhận mang nhiều khác biệt.

Sông Hương như 'người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng công chúa ngủ trong rừng). Dòng sông hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm'. Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi giữa những bãi bờ xanh biếc, nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí.

Những lăng tẩm với 'giấc ngủ nghìn năm của vua chúa đựoc phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu'.

Với những quan sát tinh tế, ngôn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ, sông Hương trong dư vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tấm lụa'. 'Những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi: Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo', những ngọn đồi đã tạo ra nững mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím' rất lạ và đặc trưng như người Huề từng nhận xét.

Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một cô gái Digan, man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu dàng, e lệ, như 'người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức', 'người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở'.

Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát,...

Bài tham khảo mẫu 2

Quê hương Việt Nam nổi bật lên những dòng sông xanh mát, chảy xuống tâm hồn con người những hình ảnh sinh động hấp dẫn nhẹ nhàng, nó mang một vẻ đẹp thanh tao thơ mộng, qua hai bài thơ Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông chúng ta có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đẹp lung linh, mơ mộng đến tâm hồn của mỗi con người.

Hình ảnh dòng sông Việt Nam được hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả thật chi tiết và sinh động trong hai tác phẩm, ở đây điểm chung mà hai tác giả này thể hiện đó là đều miêu tả vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, ở đó con người được sống và làm mát tâm hồn bởi vẻ đẹp say đắm lòng người. Vẻ đẹp của dòng sông quê hương được nhìn từ nhiều góc độ, đó là cách quan sát mà hai nhà văn đã sử dụng để nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương.

Đối với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng sông hiện lên với những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tình tứ của người con gái Việt Nam, sông Hương mang vẻ đẹp mãnh liệt như bản trường ca, Rừng già, khi bí ẩn, khi lại dịu dàng đằm thắm. Nó nhẹ nhàng, bí ẩn, đôi khi đem lại cho người nhìn cảm giác bang quơ, khó hiểu, ở đây tác giả đã nhìn sông Hương qua cách thức thể hiện từng câu chữ, hình ảnh trong tác phẩm.

Vẻ đẹp của dòng sông Hương không chỉ để lại cho người đọc cảm thấy đây là một dòng sông mang vẻ đẹp hoang dại, mang đậm nét tự nhiên, sông Hương còn giống như cô gái Di gan, phóng khoáng và man dại, sự so sánh gợi ra nhiều liên tưởng về dòng sông, vẻ đẹp đó không đâu có thể sánh bằng.

Sông Hương như một bà mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở, ở đây hình ảnh dòng sông Hương như suốt mát, như bà mẹ làm mát lên tâm hồn của những người con trong vùng xứ sở, ở đó dòng sông nhẹ nhàng, chảy xiết trong tâm hồn của những người thi sĩ. Chỉ với những cách miêu tả, so sánh đầy ấn tượng, chúng ta cũng có thể phần nào liên tưởng đến vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam, nó thật phong phú, mang nhiều màu sắc tươi tắn. Trong những vẻ đẹp đó có lẽ dòng sông Hương còn được so sánh với vẻ đẹp của những cô gái hoang dại, nằm mơ màng. Dòng sông hương không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng, mà đây còn là vẻ đẹp của sự cố kính lâu đời, nó là những vẻ đẹp kì dị huyền bí.

Là chứng nhân lịch sử, hàng ngàn năm, nó là minh chứng cho những năm tháng đấu tranh của dân tộc Việt Nam, những điều đó đã tạo nên một vẻ đẹp lịch sử cho dòng sông Hương. Nếu như sông Hương được miêu tả với những vẻ đẹp kì bí, cổ kính và nhẹ nhàng thì dòng sông Đà lại được Nguyễn Tuân miêu tả với hai xu hướng tiêu biểu đó là hai nét tính cách của dòng sông, lúc trữ tình, lúc hoang dại, hung bạo, ở đây hình ảnh của dòng sông Đà cũng được miêu tả dịu dàng, tuôn dài như mái tóc của người con gái Di Gan.

Hình ảnh đó đều gợi lại cho thi sĩ những cảm xúc riêng, đó là vẻ đẹp trữ tình, mơ mộng, hình ảnh đó gắn bó, nhẹ nhàng và da diết, nó làm cho tâm hồn của những người thi sĩ thêm chút nhẹ nhàng.

Có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đã được khái quát hết trong hai con sông tiêu biểu trên và đã được tác giả khắc họa, so sánh với những vẻ đẹp của sự trù phú, của những vẻ đẹp linh thiêng, dòng sông xanh mát chảy trong tâm hồn của người con đất Việt, những hình ảnh đó đều sinh động, nhẹ nhàng và nó gợi lại cho người đọc một cảm giác gần gũi, hơn với thiên nhiên.

Hình ảnh của dòng sông Đà không chỉ nhẹ nhàng mà nó còn được miêu tả qua nhiều hình ảnh sinh động, nhiều chi tiết hấp dẫn như cảnh đẹp nơi đây đi hết vùng thượng nguồn đến hạ nguồn ta đều bắt gặp cảnh đẹp, hình dáng của con sông Đà còn được so sánh như người con gái có mái tóc: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”. Tất cả những hình ảnh đó đều ẩn hiện lên những vẻ đẹp, những hình ảnh mang đậm giá trị, rõ nét về cảnh vật cũng như giá trị mà mỗi bài thể hiện, hình ảnh đó không chỉ đưa lại cho người đọc một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc hơn về dòng sông của Việt Nam.

Mỗi dòng sông mang một vẻ đẹp riêng, nhưng có lẽ điểm chung mà những con sông này gộp lại đó là những vẻ đẹp trữ tình, khi huyền bí khó hiểu nhưng nó cũng đều mang vẻ đẹp nhẹ nhàng, trữ tình, duyên dáng, hình ảnh đó đều góp phần làm nên một cái riêng, một nét tính cách đặc trưng cho những vùng miền khác nhau, hình ảnh về dòng sông Hương qua nhiều cách nhìn, cũng như dòng sông Đà trữ tình đều mang vẻ đẹp trong sáng, nhẹ nhàng của dòng sông quê hương, đất nước.

Những bài văn nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương đất nước, đều mang lại những vẻ đẹp riêng, đó là vẻ đẹp huyền bí, nhẹ nhàng và mang lại giá trị sâu sắc cho người đọc.

Bài văn mẫu lớp 12 bài viết số 6 - Đề 3

Đề 3: Phân tích một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà anh chị yêu thích

Dàn ý chi tiết

A. Mở bài

- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân.

- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

B. Thân bài

1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.

2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. Ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.

a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.

- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.

- Cái làng đó với người dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.

b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.

- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái không khí "đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá..."; rồi ông lo "cái chòi gác,... những đường hầm bí mật,..." đã xong chưa?

- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi "Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm".

c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.

- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.

- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó "cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi". Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ "đổ đốn" ra thế. Nhưng cái tâm lí "không có lửa làm sao có khói", lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.

- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà.

- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù". Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.

- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:

+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: "Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!" nữa là ông, bố của nó.

+ Ông mong "Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông".

+ Qua đó, ta thấy rõ: Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc).

Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biểu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng: có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.

- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí "Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước" của người nông dân lao động bình thường.

- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.

3. Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.

- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.

C. Kết bài

Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.

Bài tham khảo

Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách "phong lưu đồng ruộng" như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v... được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng.

Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ.

Ông Hai là một lão nông, cần cù chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh.

Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm "ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay". Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,... ông đều làm khéo, làm giỏi.

Ông Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được học "bình dân học vụ", biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. "Làng ta phong cảnh hữu tình"... không yêu làng sao được? Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, "nhà ngói san sát, sầm uất như tính", "dường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió… bùn không dính đến gót chân"...

Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe "cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy...". Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên "hả hê cả lòng”. Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao giờ còn "đả động" đến "cái sinh phần" ấy nữa, ông biết "thù nó" đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ Dầu của ông “mà cái phòng thông tin tuvên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”. Ông khoe làng mình "những ngày khởi nghĩa rầm rập", các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự, "nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm công trình không để đâu hết!". Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác... hiện lên một cách chân thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.

Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi “Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ”. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích "đi đào đường, đắp ụ" để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa quê hương, ông tự an ủi mình: "Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu cũng là kháng chiến!".

Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ông vô cùng đau khổ: "Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!". Chúng ta cảm thông với "tâm sự" u uẩn của ông, thương ông lắm!

Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án "dữ" cả làng Chợ Dầu "Việt gian theo Tây",.., "vác cờ thần ra hoan hô" lũ giặc cướp! Ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ. "Gian nhà lặng đi, hiu hắt". Ông sợ mụ chủ nhà... có lúc ông nghĩ quẩn "hay ta quay về làng"... nhưng rồi ông lại kiên quyết: "Lùng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!!'. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ... của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đạt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!

Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:

... - "À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?"

- "Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!"

Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má... Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi.

Vì thế, khi cái tin thất thiệt "cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây” được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông "tươi vui, rạng rỡ hẳn lên", "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ...". Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để "khoe" cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.

Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước... tiêu biểu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc "giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"... (Thép Mới).

"Quê hương là chùm khế ngọt..." là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng ta. Quê hương đang đổi mới "ngói hóa", no ấm, giàu có trong thanh bình.

Bài học sâu sắc nhất đối với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất nước, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.

download.com.vn