Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích cách xưng hô "Ta - mình" trong bài Việt Bắc - Những bài văn hay lớp 12
Chúng tôi xin giới thiệu những bài văn hay lớp 12: Phân tích cách xưng hô "Ta - mình" trong bài Việt Bắc được chúng tôi sưu tầm và đăng tải hi vọng là tài liệu hữu ích cho các bạn trong học tập môn Ngữ Văn lớp 12 của mình.
Trong bài thơ tác giả đã xưng hô "Ta - mình" để cho thấy vể thân thiết sự gắn bó của Tố Hữu với chiến khu Việt Bắc. Dưới đây là một số bài văn mẫu phân tích cách xưng hô "Ta - mình" trong bài Việt Bắc, mời các bạn cùng tham khảo.
Cách xưng hô "Ta - mình" trong bài Việt Bắc - Mẫu 1
Ở bài thơ Việt Bắc, viết về một sự kiện mang tầm lịch sử nhưng Tố Hữu đã lựa chọn cách mở đầu bằng một cuộc đối đáp mang âm hưởng dân ca và cách xưng hô ta – mình ngọt ngào đằm thắm. Điều đặc biệt là cách tác giả sử dụng cặp từ ta – mình trong bài thơ không chỉ một lần mà nó trở thành một điệp khúc trở đi trở lại, luyến láy hết sức tài hoa.
Đoạn đầu bài thơ là lời của người ở lại với người ra đi, thể hiện tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong buổi chia tay:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Chữ mình ở đây chỉ người ra đi, còn chữ ta để nói tới người ở lại. Tình cảm nhớ thương dồn nén sâu nặng trong chữ mình. Mỗi câu lục trong đoạn thơ chữ mình lặp lại hai lần cùng với nhiều thanh bằng làm nhịp thơ như trùng xuống, khắc khoải, da diết. Người ở lại đặt những câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhở người ra đi hãy nhớ về Việt Bắc, vừa thể hiện tình cảm sâu sắc, mặn nồng. Bốn chữ nhớ trong 4 dòng thơ nhắc nhớ về 15 năm kháng chiến và khung cảnh Việt Bắc. Cặp từ xưng hô mình – ta đầy tình tứ như xoắn quyện lấy nhau, vì là lời của người ở lại nên nhắc tới mình thì nhiều, nhắc tới ta thì ít. Chữ ta chỉ được nhắc đến một lần như một sự khiêm tốn để cho những kỉ niệm ùa về trong giây phút chia tay. Trong ca dao Việt Nam, cặp từ xưng hô mình –ta cũng khá quen thuộc, là cách xưng hô của những đôi lứa yêu nhau. Nhắc đến cặp từ này, người ta thường nhắc đến nỗi nhớ, đến sự gắn bó thủy chung:
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình chăng ai?
Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Mình về, mình nhớ ta chăng?
Bao giờ cho hương bén hoa
Cho đào bén túi, cho ta bén mình
Thuyền không, đậu bến Giang Đình
Ta không, ta quyết lấy mình làm đôi
Trăm năm ước bạn chung tình
Trên trời dưới đất, có mình có ta
Những câu thơ lục bát của Tố Hữu vận dụng nhuần nhuyễn cách nói của ca dao, dân ca. Cũng có thể nói đó là một lối tập ca dao mà đọc lên âm điệu thật tha thiết, ngọt ngào. Chất giọng Huế, chất giọng trữ tình thương mến ấy có lẽ chỉ tìm thấy ở tác giả Việt Bắc.
Đoạn thơ thứ hai của bài là lời đáp lại của người ra đi tạo nên sự cân xứng cho kết cấu đối đáp dân ca. Người ở lại nhớ nhung bao nhiêu thì người ra đi bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến bấy nhiêu:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Chữ ta, chữ mình không xuất hiện nhưng thực ra đã hóa thân vào tiếng ai tha thiết bên cồn, vào hình ảnh áo chàm giản dị mà đầy nghĩa tình cách mạng. Có cả mình, cả ta ở cái cầm tay như một nốt lặng của tình cảm trong buổi phân ly. Ở đây, chỉ có thứ ngôn ngữ không lời của ánh mắt mới đủ sức chứa đựng nỗi niềm của người đi, kẻ ở.
Sang đến đoạn ba và đoạn bốn cặp từ mình – ta được tác giả sử dụng hết sức tài hoa, luyến láy tạo nhạc tính cho đoạn thơ.
Ở đoạn ba, cặp từ mình đi, mình về lặp đi lặp lại 6 lần trong 6 câu lục của đoạn thơ. Mình ở đây vẫn chỉ người ra đi. Và dù là mình đi hay mình về cũng chỉ chung một hành động. Đi là chia tay chiến khu, về là về miền xuôi thủ đô. Nét đặc sắc trong sự lặp lại của cụm từ này là không hề tạo ra sự nhàm chán cho người đọc bởi tiết tấu biến hóa: mình đi – mình về – mình về -mình đi:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về , có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng nhật, thuở còn Việt Minh
Và mỗi lần như vậy câu nào cũng gắn với từ nhớ. Người ở nhắc lại những kỉ niệm trong buổi đầu kháng chiến đầy khó khăn gian khổ mà sâu nặng ân tình. Tố Hữu cũng sử dụng triệt để thủ pháp đối trong những câu bát của đoạn thơ này tạo nhịp thơ vừa cân xứng hài hòa, vừa dễ đi vào lòng người. Kết thúc đoạn thơ là ba chữ mình trong một câu thơ độc đáo:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Chữ mình ở đây vừa để chỉ người ra đi, vừa để nói tới người ở lại trong một sự hòa quyện khăng khít tuy hai mà một. Chữ nhớ trở thành một chiếc cầu nối giữa hai chữ mình càng làm tăng thêm sự da diết nhớ nhung trong tình cảm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Ta đã gặp ở đâu đó trong ca dao những cuộc chia tay và biết bao nỗi nhớ của người đi, người về như vậy.
Tình cảm thủy chung son sắt của đôi lứa yêu nhau từ câu ca dao có bao đời nay đã đi vào những vần thơ cách mạng của Tố Hữu sao mà tự nhiên và ngọt ngào đến vậy. Ta có cảm tưởng lời của người ở lại cứ ngân nga dài mãi như sợi dây vô hình vấn vít lấy người ra đi: trong lòng ta, giờ chỉ có mình, sao nỡ ra đi?…
Không lặp lại cách nói ở đoạn ba, đến đoạn bốn cặp từ mình – ta đắp đổi cho nhau một cách linh hoạt ta với mình, mình với ta tạo thành 2 vế cân xứng.
Cách xưng hô "Ta - mình" trong bài Việt Bắc - Mẫu 2
Bài thơ Việt bắc ra đời vào tháng 10 năm 1954, sau hơn ba ngàn ngày khói lửa Hồ Chủ Tịch đưa đoàn quân chiến thắng về thủ đô. Trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy. Tố Hữu đã làm nên bài thơ Việt Bắc. Bao trùm lên bài thơ là một nối nhớ của người cán bộ cách mạng với những người Việt Bắc. Nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi thể hiện tình cảm thủy chung năng tình nặng nghĩa giữa người miền ngược và người miền xuôi. Góp phần làm nổi bật nỗi nhớ, tình cảm đó chính là cặp đại từ nhân xưng "mình" - " ta".
Bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát theo cấu trúc đối đáp mềm mại. Đó là những lời hỏi đáp giữa " mình" và "ta" giữa người ở và người đi trong buổi chia tay đầy lưu luyến. Thể thơ và cách xưng hô này rất phổ biến trong ca dao, dân ca Việt Nam đặc biệt là những câu hát giao duyên. Chính nhờ sự đối đáp này mà người đọc có thể hiểu được đoạn đối thoại giữa người đi và ở cũng như diễn tả được nghĩa tình sâu nặng giữa những cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc.
Bằng việc phân thân thành hai nhân vật trữ tình cũng giúp tác giả bộc lộ nhiều hơn những cảm xúc trong lòng mình đồng thời tạo nên sự đồng điệu đối với người đọc . Điều đặc biệt là cấu trúc truyền thống này không chỉ được tác giả sử dụng một lần mà đã trở thành một điệp khúc luyến láy tài hoa.
Nếu như trong ca dao xưa đại từ mình thường sử dụng ngôi thứ nhất thì ở trong bài thơ Việt Bắc tác giả đã sử dụng dụng linh hoạt đại từ "mình - ta". Trong lời của đồng bào Việt Bắc đại từ "mình" thường được sử dụng ở ngôi thứ hai để chỉ cán bộ kháng chiến. Còn đại từ "ta" được dùng ở ngôi thứ nhất là lời tự xưng của đồng bào Việt Bắc.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ người"
Với người ở lại nỗi nhớ đã bật lên thành lời "Mình về mình có nhớ ta". Đại từ " mình" láy lại cứ ngân lên như một âm hưởng thật da diết. Đó là những lời hỏi của trái tim, của tâm tình. Khiến người đi chỉ có thể dùng trái tim để đáp lại . Cách xưng hô mình ta thắm ngọt như lời thủ thỉ của đôi lứa yêu nhau, đánh thức ở người đọc những tình cảm thiêng liêng nhất vốn ủ kín trong trong lòng.
Trong ca dao Việt Nam cặp đại từ thường được sử dụng khi nhắc đến nỗi nhớ, đến sự gắn bó thủy chung:
"Minh về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
Bên cạnh đó lối xưng hô ' mình - Ta' còn giúp nổi bật lên cấu trúc đối đáp giữa người miền ngược và người miền xuôi. Đây chính là sự tiêu biểu của khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.
Trong thơ Tố Hữu mỗi bài thơ đều gắn với sự kiện của đất nước, mỗi thời khắc lịch sử đã trở thành cảm hứng nghệ thuật và được nhà thơ chuyển hóa vào bài thơ dưới hình thức trữ tình mềm mại.
Lối xưng hô "mình - ta" đã giúp nhà thơ thể hiện điều này một tư tưởng, chủ đề của tác phẩm một cách sâu sắc. Điều này còn biến một bài thơ hiện đại thành một bản tình ca với những âm điệu ngọt ngào và đậm đà tình dân tộc.
Bên cạnh đó, bằng lối đáp giao duyên Tố Hữu xây dựng thành công vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Bắc. Đồng thời tái hiện lại thời kỳ lịch sử gian khổ ở quê hương cách mạng, làm nổi bật lên toàn bộ giá trị của tác phẩm.
Cách xưng hô "Ta - mình" trong bài Việt Bắc - Mẫu 3
Bài thơ Việt bắc ra đời vào tháng 10 năm 1954, sau hơn ba ngàn ngày khói lửa Hồ Chủ Tịch đưa đoàn quân chiến thắng về thủ đô. Trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy. Tố Hữu đã làm nên bài thơ Việt Bắc. Bao trùm lên bài thơ là một nối nhớ của người cán bộ cách mạng với những người Việt Bắc. Nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi thể hiện tình cảm thủy chung năng tình nặng nghĩa giữa người miền ngược và người miền xuôi. Góp phần làm nổi bật nỗi nhớ, tình cảm đó chính là cặp đại từ nhân xưng "mình" - " ta".
Bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát theo cấu trúc đối đáp mềm mại. Đó là những lời hỏi đáp giữa "mình" và "ta" giữa người ở và người đi trong buổi chia tay đầy lưu luyến. Thể thơ và cách xưng hô này rất phổ biến trong ca dao, dân ca Việt Nam đặc biệt là những câu hát giao duyện. Chính nhờ sự đối đáp này mà người đọc có thể hiểu được đoạn đối thoại giữa người đi và ở cũng như diễn tả được nghĩa tình sâu nặng giữa những cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc.
Bằng việc phân thân thành hai nhân vật trữ tình cũng giúp tác giả bộc lộ nhiều hơn những cảm xúc trong lòng mình đồng thời tạo nên sự đồng điệu đối với người đọc . Điều đặc biệt là cấu trúc truyền thống này không chỉ được tác giả sử dụng một lần mà đã trở thành một điệp khúc luyến láy tài hoa.
Nếu như trong ca dao xưa đại từ mình thường sử dụng ngôi thứ nhất thì ở trong bài thơ Việt Bắc tác giả đã sử dụng dụng linh hoạt đại từ "mình - ta". Trong lời của đồng bào Việt Bắc đại từ "mình" thường được sử dụng ở ngôi thứ hai để chỉ cán bộ kháng chiến. Còn đại từ "ta" được dùng ở ngôi thứ nhất là lời tự xưng của đồng bào Việt Bắc.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ người"
Với người ở lại nỗi nhớ đã bật lên thành lời "Mình về mình có nhớ ta". Đại từ " mình" láy lại cứ ngân lên như một âm hưởng thật da diết. Đó là những lời hỏi của trái tim, của tâm tình. Khiến người đi chỉ có thể dùng trái tim để đáp lại . Cách xưng hô mình ta đặm ngọt như lời thủ thỉ của đôi lứa yêu nhau, đánh thức ở người đọc những tình cảm thiêng liêng nhất vốn ủ kín trong trong lòng.
Bên cạnh đó lối xưng hô ' mình - Ta' còn giúp nổi bật lên cấu trúc đối đáp giữa người miền ngược và người miền xuôi. Đây chính là sự tiêu biểu của khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.
Trong thơ Tố Hữu mỗi bài thơ đều gắn với sự kiện của đất nước, mỗi thời khắc lịch sử đã trở thành cảm hứng nghệ thuật và được nhà thơ chuyển hóa vào bài thơ dưới hình thức trữ tình mềm mại.
Lối xưng hô "mình - ta" đã giúp nhà thơ thể hiện điều này một tư tưởng, chủ đề của tác phẩm một cách sâu sắc. Điều này còn biến một bài thơ hiện đại thành một bản tình ca với những âm điệu ngọt ngào và đậm đà tình dân tộc.
Bên cạnh đó, bằng lối đáp giao duyên Tố Hữu xây dựng thành công vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Bắc. Đồng thời tái hiện lại thời kỳ lịch sử gian khổ ở quê hương cách mạng, làm nổi bật lên toàn bộ giá trị của tác phẩm.
Với ngôn từ trong sáng, mộc mạc gần gũi cùng với thể thơ lục bát linh hoạt mềm mại, đặc biệt Tố Hữu đã thành công trong việc sử dụng đại từ nhân xưng "mình - ta" đã tạo nên một ánh văn thơ được coi là đỉnh cao của văn thơ cách mạng. Bằng ngòi bút tài hoa tác giả đã tạo nên cuộc đối đáp giao duyên nặng tình giữa đi và người ở, đồng thời nêu nổi bật được vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng như thời khắc lịch sử của dân tộc.
Cách xưng hô "Ta - mình" trong bài Việt Bắc - Mẫu 4
Tố Hữu là một nghệ sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng trong đó có bài Việt Bắc nổi lên với những phong cách nghệ thuật độc đáo và phép nhân xưng mình ta để làm nổi bật lên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của tác giả.
Trong bài thơ mở đầu tác giả đã sử dụng những biện pháp xưng hô mình ta để làm tăng lên nghệ thuật xây dựng phép điển hình của nhà thơ, mỗi một biện pháp có thể làm tăng lên tính chất sử dụng ngôn ngữ và nhân vật của tác giả. Nghệ thuật xây dựng mình ta đã được mở đầu cho bài thơ, mỗi một đoạn tác giả đều sử dụng nó để tăng lên tính chất sử dụng nghệ thuật của tác giả. Mình có thể là những đồng chí đồng đội, ta có thể là tác giả ở đây tác giả đã sử dụng ngôn ngữ để nhằm giao tiếp với nhân vật đối phương qua nghệ thuật sử dụng biện pháp xưng hô:
Mình về có nhớ ta chăng
Ta thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Những biện pháp xưng hô làm tăng lên khẩu ngữ ngôn ngữ trong nghệ thuật của tác giả, với tài năng của chính mình tác giả đã tăng nghệ thuật đối ngẫu cho tác phẩm. Những giá trị to lớn trong nghệ thuật này đã làm tăng lên mức độ của bài thơ như một lời đối đáp với người đã đi xa, có thể nói rằng bài thơ này như một nghệ thuật đối ngẫu phong phú, ở đó tác giả có thể tự sử dụng ngôi kể và giao tiếp với những nhân vật trong bài thơ của mình một cách rất ý nghĩa.
Ở đây trong cách sử dụng nghệ thuật mình - ta tác giả đang thể hiện mạnh mẽ trong từng tác phẩm, những giá trị của nó để lại cho bài thơ một lời đối ngẫu phong phú làm tăng lên nỗi nhớ thương đang hàm chưa trong tác phẩm. Việt Bắc là một bài thơ hay với những nghệ thuật nổi tiếng được sử dụng phổ biến trong bài thơ, những lời đối ngẫu và phép nghệ thuật mình ta nó đã mang lại những tính chất nổi bật của bài thơ, với hàng loạt những tính chất nổi bật và có giá trị. Mỗi chúng ta đều phát hiện ra những nét nổi bật đang hàm chứa trong từng tác phẩm. Nghệ thuật mình ta đã làm nổi bật lên những nỗi nhớ thương và đây chính là cảm hứng chủ đạo trong cả bài thơ.
Nghệ thuật xây dựng hình tượng cũng đậm nét và nó làm nên những giá trị tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả, những phép xưng hô nổi bật mình ta đã làm cho tác giả thể hiện mạnh mẽ những nỗi nhớ thương mang phong cách nghệ thuật nổi bật trong tác phẩm. Khi tác giả đi về khỏi vùng đất mình đã từng gắn bó và chung sống với những người đồng chí đồng đội của mình, nghệ thuật này cũng như tự vấn để tác giả có thể làm nên những giá trị to lớn trong toàn bộ tác phẩm. Nghệ thuật sử dụng mình ta đã làm tăng lên những giá trị tiêu biểu trong toàn bộ tác phẩm, nghệ thuật của nó để lại cho tác phẩm những nét độc đáo qua cách tạo dựng nên nhân vật và nghệ thuật xưng hô giàu tính hình tượng với những hình ảnh đối ngẫu nổi bật.
Trong bài thơ các phép ngôn ngữ giàu tính hình tượng làm nổi bật lên cả bài thơ với những phép đối ngẫu trong phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Những hình tượng trong tác phẩm được sử dụng để dùng để diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắc của tác giả đối với bài thơ của mình. Những nghệ thuật nổi bật được sử dụng trong tác phẩm đã làm tăng lên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, với việc kết hợp những hình tượng mang những nét đặc trưng để diễn tả những nổi nhớ thương tại vùng đất Việt Bắc nơi đây.
Tác giả người đã từng trải nghiệm và sống tại vùng đất nơi đây trong cách sử dụng những hình ảnh mang những đặc trưng nổi bật trong phong cách đối ngẫu của người đã làm gia tăng lên giá trị sử dụng nghệ thuật đặc sắc, với hàng loạt những nét đặc sắc, nghệ thuật xưng hô mình ta đã làm tăng lên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong toàn tác phẩm. Nghệ thuật đó đã làm tăng lên giá trị về cung bậc cảm xúc của tác giả trong bài thơ. Với những nghệ thuật nổi bật nguồn cảm hứng nổi bật trong bài thơ đã nổi bật sâu sắc trong tác phẩm với những nguồn cảm hứng mang nét đặc trưng nổi bật để làm gia tăng lên giá trị nổi bật trong tác phẩm.
Phép xưng hô mình ta đã làm tăng lên những ý đồ mà tác giả đang sử dụng trong tác phẩm của mình, những hình ảnh nổi bật được sử dụng trong đó làm tăng lên cảm hứng chủ đạo đó là nổi nhớ của tác giả về một thời đã từng gắn bó với vùng đất nơi đây, với những người chiến sĩ, những cảnh vật, những nét đặc sản cổ truyền của vùng Việt Bắc, những chùm hoa chuối đỏ tươi, những chùm mơ cháy rừng tất cả đều được nổi bật trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và nét đặc trưng trong mỗi tác phẩm của người.
Nổi nhớ là cảm hứng chủ đạo và bao trùm lên toàn bộ tác phẩm, với việc làm tăng lên những nỗi nhớ thương đó, tác giả đã sử dụng phép nghệ thuật mình ta để làm tăng lên sự cải thiện trong phép đối ngẫu và giá trị của tác phẩm. Những lời thơ được sử dụng ở đây mang những đặc trưng nhằm ẩn dụ để nói về những đối tượng đã từng gắn bó với tác giả, những nghệ thuật đó không chỉ để tác giả sử dụng nhằm làm tăng lên giá trị trong tác phẩm mà ngôn ngữ của nó cũng được làm rõ và không ngừng được biến đổi trong tác phẩm.
Tác giả đã từng gắn bó suốt 15 năm với mảnh đất nơi đây, biết bao kỉ niệm được gắn bó mặn nồng trong tác phẩm, giá trị của nó không chỉ làm nổi bật lên sự sống và còn làm tăng lên những nỗi nhớ thương về một hoài niệm đã qua.
Mời ác bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!