Bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về chiếc quạt giấy - Những bài văn hay lớp 8
Quạt giấy là đồ vật vô cùng có ích với cuộc sống của chúng ta, hầu như nhà ai cũng phải có một chiếc, nó cũng dễ dàng thuận tiện cho mọi người mang theo. Không chỉ vậy quạt giấy còn là một món đồ dùng để trang trí cho những của hàng.
Bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về chiếc quạt giấy, đây là tài liệu được chung tôi sưu tầm và chọc lọc từ những bài văn hay nhất của các bạn học sinh giỏi trên toàn quốc. Tài liệu này là dàn ý chi tiết và những bài văn mẫu thuyết minh về chiếc quạt giấy, mời các bạn cùng tham khảo.
Dàn ý thuyết minh về chiết quạt giấy
I. Mở bài:
- Giới thiệu về đối tượng cần thuyết minh(cái quạt giấy).
II. Thân bài:
1. Nguồn gốc:
- Quạt giấy đến thế kỷ 10 mới xuất hiện, gọi là quạt tập diệp.
2. Đặc điểm:
- Quạt giấy nhỏ và dẹp, dễ mang theo.
- Quạt có phần cán quạt được làm bằng nan tre
- Phần chính là tà quạt được làm bằng giấy, gấp xếp, in hoa văn.
3. Công dụng:
- Quạt bé dùng để quạt mát.
- Quạt to thì dùng trong các nghi lễ cung đình, vua chúa ngày xưa.
4. Cách bảo quản:
- Không quăng, quật lung tung.
III. Kết bài:
- Khẳng định vai trò của chiếc quạt giấy
Thuyết minh về chiết quạt giấy - Mẫu 1
Ngày xưa, khi cuộc sống còn dân dã, chưa phát triển văn minh đầy đủ tiện nghi như ngày nay thì những chiếc quạt giấy là công cụ hữu ích cho đồng bào ta những ngày hè oi nóng. Vậy thì để hiểu thêm về chiếc quạt giấy của dân tộc, chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé.
Chiếc quạt giấy xuất hiện từ thế kỉ mười. Xưa kia, những chiếc quạt giấy bản to đã từng xuất hiện trong cung của vua chúa để làm quạt đi với lọng phục vụ vua chúa hoặc là đồ vật cầm tay của những bậc tao nhân mặc khách, những phi tần làm thêm vẻ duyên dáng, mĩ miều. Chiếc quạt giấy là một vật dẹp và nhẹ để người cầm trên tay mà phe phẩy, đưa đẩy hơi gió. Trải qua thời kì phát triển chiếc quạt còn được cách tân và thêm phần đẹp hơn, với những họa tiết hoa văn phong phú, đặc sắc mẫu mã đa dạng. Chiếc quạt giấy có hai phần chính. Phần cán quạt được làm bằng gỗ dẹt chuốt mỏng và đều tay, xếp đan cài lên nhau để có thể xê dịch thu vào hoặc kéo ra. Cán quạt là sự gộp lại của những nan quạt được nối bằng một chiếc đinh nhỏ. Phần tà quạt được làm bằng tấm giấy mỏng nhưng bền và chắc, trên đó có in họa tiết những bông hoa, cảnh sông nước hay địa danh nổi tiếng. Những bài thơ hay những câu đối và chữ nho cũng là chi tiết tạo điểm nhấn cho chiếc quạt. Chiếc quạt giấy là linh hồn của dân tộc ta. Bởi sự đơn sơ, mộc mạc và giản dị của nó cũng giống như tâm hồn bình dị, mộc mạc của người dân Việt Nam. Chiếc quạt giấy gần gũi với người dân ta, đi cùng với các triều đại lịch sử.
Nếu giờ đây cuộc sống của nhân dân ta ngày càng phát triển, văn minh tiến bộ. Mùa hè nóng có quạt điện, quạt hơi nước, điều hào máy lạnh thì xưa kia các cụ quang năm gắn bó với ruộng đồng những chiếc quạt giấy chính là vật dụng hữu ích để họ quạt mát những trưa hè oi nóng. Hơn thế nữa, trong xa xưa chiếc quạt giấy cỡ to hơn có thẻ dùng để trang trí cung tẩm, làm đồ vật theo kiệu các vua chúa. Ngoài tác dụng thực tế, quạt xếp cũng là món hàng lưu niệm để đề thơ, vẽ cảnh. Thời hiện đại quạt xếp cũng như quạt phiến còn dùng làm vật quảng cáo, cổ vũ, quà tặng để phổ biến tên hiệu trên thương trường bằn cách in logo trên mặt quạt. Vì sẵn có mặt rộng để minh họa, cây quạt đã biến thành vật mỹ thuật dùng trang trí trong nhà, có thể treo lên vách như tranh hoặc gác trên giá gỗ đặt trên bàn. Một số vũ điệu cũng dùng quạt xếp như vũ điệu tamia tadik của người Chàm. Trong thi ca Việt Nam cũng nhắc đến cây quạt như bài thơ ngắn trào phúng vịnh chiếc quạt xếp của Bà Chú thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Nhà thơ Vương Trọng có bài thơ “Gió từ tay mẹ” sáng tác năm 1974 gắn liền cây quạt với tình mẹ. Ca dao, đồng dao thì vẫn lưu truyền "Thằng Bờm có cái quạt mo, Phú ông xin đổi ba bò chín trâu...". Chiếc quạt giấy cũng là vật dụng gắn liền với những điệu múa duyên dáng. Chưa bao giờ dù là xưa hay nay chiếc quạt giấy vẫn gắn bó, gần gũi với người dân Việt Nam.
Chiếc quạt giấy được làm khá đơn giản, bởi ngày xưa nhân dân ta còn nguyên sơ, thuần phác chưa có những thiết bị hỗ trợ như bây giờ. Vật liệu cần tre và giấy dai, bền. Tre khoảng 5 năm không quá non. Chặt xuống cưa khúc tùy theo kích thước nan tre. Đem ngâm trong ao hồ khoảng 6 tháng đến 1 năm để cho chất protein trong tế bào tre bị thẩm thấu hết ra nước, khi đó sẽ không bị mọt. Sau đó vớt lên luộc bằng nước vôi loãng khoảng 12 tiếng, cho vào máy chẻ nan và tuốt nan cho hết xơ. Chốt nhôm được gắn vào sau khi xếp nan và khoan lỗ nhài. Có thể dùng đinh tán, ốc vít hay chốt nhựa. Phải dùng mũi khoan nhỏ sắc khoan mở trước sau đó dùng mũi khoan to dần tới khi bằng kích thước chốt, gắn chốt xong tán chốt. Dùng máy mài để mài đuôi hình trái xoan hay tròn theo yêu cầu. Giấy cắt theo hình vòng cung bán nguyệt, trước khi cắt thường in nội dung hay phong cảnh lên đó. Sau đó xòe nan để kiểm tra đọ chắc chắn là ổn rồi.
Thuyết minh về chiết quạt giấy - Mẫu 2
Chiếc quạt giấy không biết từ bao giờ đã đi vào thơ ca, nhạc họa một cách rất tự nhiên. Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của công nghệ, bằng trí tuệ của loài người đã cho ra đời những thiết bị làm mát hiện đại như quạt điện, điều hòa… dần thay thế chiếc quạt giấy.Thế nhưng quạt giấy vẫn luôn là một phần kí ức tuổi thơ đẹp đẽ, không thể lãng quên.
Quạt giấy đã ra đời từ bao giờ? Chiếc quạt đã xuất hiện từ rất lâu khi con người có nhu cầu làm mát và trang trí. Nước ta cũng là một trong những quê hương của quạt giấy. Từ xa xưa, quạt giấy của người Việt Nam đã bắt nguồn từ những lũy tre xanh. Từ những thân tre cao, to, người ta đã chẻ ra những nan quạt cứng cáp. Mỗi chiếc quạt gồm khoảng 18- 20 nan tre mỏng 1mm, dày 1cm dài từ 16- 20 cm xếp lại với nhau. Hai nan ngoài cùng bao giờ cũng to, dày và cứng hơn các nan bên trong để chịu lực chính. Gần cuối các nan được cố định bằng một khuy chốt để quạt có thể mở ra, khép vào dễ dàng. Bao phủ trên toàn bộ khung quạt là một lớp giấy chất liệu tốt, dai, bền. Giấy được dán vào các nan quạt, khoảng cách giữa các nan dính trên giấy đều nhau tạo thành hình bán nguyệt. Để tạo sự hấp dẫn cho chiếc quạt, người ta còn vẽ hoặc in hoa văn, hoa tiết nhiều màu sắc nên giấy, hoặc các danh lam thắng cảnh đẹp.
Quạt giấy có rất nhiều công dụng hữu ích cho con người. Vào những buổi trưa hè nắng nóng, bị mất điện, quạt điện hay điều hòa không thể dùng được nữa thì chiếc quạt giấy thật sự là một vật dụng quan trọng. Quạt giấy phe phẩy trên tay của những người mẹ ru con ngủ hay trên tay của những người bà vừa quạt vừa kể chuyện cho cháu nghe. Quạt giấy nhỏ, nhẹ, có thể gấp gọn lại thuận tiện khi đi đường. Mỗi khi dừng chân, ngồi nghỉ có thể đem ra để quạt xua đi mệt mỏi, nắng nóng. Trong một số trường hợp quạt có thể thay thế cho mũ, nón để che nắng. Vào thời xưa, quạt còn được dùng như một món đồ trang sức, thể hiện đẳng cấp. Quạt giấy còn được các nhà nho, nhà thơ viết những câu đối, những câu danh ngôn hay những bài thơ đặc sắc có thể được dùng làm quà tặng, đồ lưu niệm hay trang trí. Quạt còn là một trong những đạo cụ không thể thiếu trong sân khấu chèo, tuồng…làm tăng thêm sự thùy mị, nết na của những tiểu thư khuê các. Quạt cũng đi vào những điệu múa đầy nhẹ nhàng, uyển chuyển về quê hương, đất nước.
Quạt giấy có những ưu điểm hơn quạt điện là quạt giấy gọn nhẹ, có thể gấp lại gọn gang thuận lợi mang đi và sử dụng ở bất cứ đâu. Ngoài ra, quạt giấy không tốn điện, không ảnh hưởng đến môi trường như các thiết bị điện. Bên cạnh đó, quạt giấy cũng còn nhiều hạn chế. Làm được một chiếc quạt đẹp phải trải qua nhiều công đoạn và cần sự tỉ mỉ. Tre phải dẻo, già có độ tuổi từ ba năm trở lên, không mối mọt thì nan quạt mới bền, đẹp. Tuy nhiên khi sử dụng lâu sẽ mỏi tay, không quạt mát như quạt điện. Quạt giấy khá mỏng manh dễ bị hỏng nên chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ. Sau khi sử dụng phải gấp lại nhẹ nhàng, cất gọn đi. Không sử dụng quạt để nô đùa để tránh quạt bị gãy.
Thuyết minh về chiết quạt giấy - Mẫu 3
Xã hội ngày càng văn minh nhờ có sự xuất hiện của nguồn điện năng. Hầu hết các sản phẩm, đồ dùng của chúng ta ngày nay đều được máy móc sản xuất. Song, không phải vì thế mà những sản phẩm thủ công lép vế và bị quên lãng mà chúng vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống. Và quạt giấy, một sản phẩm được làm bằng chính đôi bàn tay con người, cũng như thế, đã đi qua bao thế hệ và vẫn gắn bó với cuộc sống ngày nay.
Các nghiên cứu khảo cổ cho thấy quạt giấy đã xuất hiện cách đây hơn năm nghìn năm, từ thời Ai Cập cổ đại khi người ta tìm thấy hai chiếc quạy lớn ở ngôi mộ của một hoàng đến Ai Cập. Sau đó, quạt được giới thiệu ở châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và được đưa sang nhiều các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam.
Nghề làm quạt ở nước ta đã tồn tại từ rất lâu rồi với nhiều làng làm quạt nổi tiếng như Chàng Sơn (huyện Thạch Thất, Hà Nội), làng Vẽ (huyện Từ Liêm), Ân Thi (Hải Dương), … và nổi bật nhất là làng Kẻ Vác ở huyện Thanh Oai, Hà Nội. Đây là làng nghề truyền thống do ông Mai Đức Siêu dựng lên, và ông cũng được mọi người coi là ông tổ của nghề làm quạt. Hình ảnh làng Kẻ Vác, hay còn gọi là làng Canh Hoạch đã đi vào câu ca dao dân gian như một minh chứng cho làng nghề nức danh này:
Khác với những loại quạt điện hiện nay, quạt giấy chỉ gồm hai bộ phận chính là khung quạt và phần giấy quạt. Khung quạt khi xưa được làm bằng tre, sau đó người ta còn làm khung bằng các loại gỗ khác, bằng nhựa hoặc bằng ngà,… Khung quạt là tập hợp của các nan quạt, thường là từ mười lăm đến mười bảy nan, trong đó thì hai nan quạt ngoài cùng thường dày hơn so với những nan ở giữa để giữ cho phần khung được chắc chắn hơn. Độ dài của nan quạt không được quy định cụ thể mà tùy vào người làm và kích thước của quạt để thiết kế cho phù hợp. Mỗi nan có hai đầu, một đầu to và một đầu nhỏ. Đầu to thường được vót cong cong hình cánh cung. Khi xếp các nan với nhau, người thợ sẽ đục một lỗ xuyên qua các nan rồi luồn dây thép hoặc ốc vít để cố định các nan. Các nan được đặt xếp bằng lên nhau và được phần giấy quạt cố định hình dạng để khi mở ra, các nan chia đều nhau thành hình bán nguyệt. Với phần giấy quạt, người thợ sẽ phải đo để cắt cho vừa với khung. Lớp giấy này được đặt lên các nan ở cả hai mặt, cố định bằng hồ dán. Hồ dán này cũng được lấy từ tự nhiên, là nhựa quả cậy hoặc bột nếp được hòa với nước, quấy cho đến khi hơi sệt lại. Nhựa quả cậy cho độ bền và dính cao hơn. Quạt sau khi được dán giấy sẽ được quét một lớp sơn bóng để quạt bền đẹp lâu hơn.
Quạt giấy vẫn có vai trò quan trọng trong cuộc sống bởi những công dụng mà nó mang lại cho con người. Quạt tạo ra cho ta luồn không khí thoáng mát cho những ngày hè oi ả, là cơn gió thoảng từ tay mẹ đưa con thơ vào giấc ngủ, là những đêm nằm phe phẩy quạt dưới trăng thanh gió mát. Quạt giấy còn được dùng trong bếp như một vật dụng hỗ trợ cho lửa lên như khi nhóm bếp, nướng bánh đa, thịt chả xiên,… Quạt giấy còn được người ta tặng cho nhau khi trở về từ chuyến du lịch đến các làng nghề truyền thống hay từ những khu phố cổ đậm màu cổ xưa. Vào thời phong kiến, các thi nhân cũng sử dụng quạt để đề thơ, các họa sĩ lấy giấy quạt để in dấu các tác phẩm của mình. Bởi thế mà quạt giấy còn là một vật trang trí trong nhà. Chiếc quạt giấy cũng được các nghệ sĩ múa đưa vào làm đạo cụ biểu diễn, múa quạt là điệu múa truyền thống tự ngàn đời và vẫn được trình diễn trong nhiều tiết mục ngày nay. Không chỉ múa mà trong chèo, trong ca kịch, người ta cũng sử dụng quạt làm đạo cụ biểu diễn.
Thuyết minh về chiết quạt giấy - Mẫu 4
Từ Phương Đông, cái quạt du nhập sang Phương Tây. Châu Âu máy móc và lý chí gọi cái quạt là chiếc bình phong nhỏ di động. Dùng để quấy đảo không khí, làm cho mát. Châu Âu cũng có nhiều quạt. Đặc biệt, giới quý tộc dùng nhiều quạt rất cầu kỳ vì họ coi chúng là một loại đồ trang sức năng động và tế nhị: quạt có đăng ten, quạt lụa màu, quạt có gương, quạt có đá quý, quạt đồi mồi…
Nước ta là một trong những quê hương của cái quạt. Ở Hà Nội xưa, tại phố hàng quạt ở đình Phiến Thị (chợ quạt) cũng gọi là đình hàng quạt, có thờ tổ sư nghề làm quạt họ Đào, người làng Đào xá, Ân Thi, Hải Hưng. Chính dân Đào Xá đã ra Kẻ chợ lập phường làm quạt và dựng nên ngôi đình này. Gần đây, quạt Hưng Yên, quạt Phù Ủng, quạt Hữu Bằng là có tiếng nhất.
Có rất nhiều loại quạt, quạt trầm hương, đồi mồi, lá, nan, lông gà…Quạt lầu bóng, quạt thằng bờm, quạt lễ, quạt rước, quạt tiến, quạt kéo, quạt thước…Quạt kéo có cánh 1m80 x 0.7m, lược vải và có hệ thống dây cho một người kéo, làm mát được không gian rộng. Nó xuất hiện ở Hà Nội từ năm 1914. Quạt thước dài chừng 45cm dùng cho những người có tuổi ở nông thôn. Nó vừa che nắng, che mưa, đuổi chó. Cho nên, còn gọi là quạt đánh chó. Năm 1944, nhà văn Nguyễn Tuân mặc áo gấm, khăn đóng, tay cầm cái quạt thước to xòe ra, vào quán TAVERRRNE, được mọi người xúm xít lại nhìn ngắm, trầm trồ. Đặc biệt là những khách người Pháp đánh giá rất cao cách ăn mặc này kèm cái quạt thước độc đáo.
Cái quạt giấy Việt Nam dù to dù nhỏ bao giờ cũng chỉ có 17, 18 nan. Chưa bao giờ có quạt 16 hoặc 19 nan. Xét về mặt cấu tạo của chiếc quạt giấy, ta thấy nó gồm ba phần: nan, khuy, giấy. Nan quạt thường được làm bằng tre, chẻ nhỏ mỏng 1mm rộng 1cm, dài 20cm đến 28cm. Hai nan cái ngoài cùng bằng cật tre dày và cứng có tác dụng chịu lực chính. Nan tre là loại tre già, được ngâm trong ao hồ khoảng 1 vài năm cho chất protein trong tế bào tre thoát hết. Khi đó nan sẽ hết chất protein nên không bị mối mọt ăn. Hiện nay, một số nhà sản xuất hàng loạt bằng máy nên thường dùng thuốc quét lên trên nan để chống mối mọt, một thời gian sử dụng sẽ bay hết. Thuốc này không có lợi cho sức khỏe, thường xuyên tiếp xúc có thể tích tụ trong người gây ung thư. Khuy quạt là đinh cố định các nan ở một đầu. Hai bên khuy được cố định bằng hai nhài. Có thể cải tiến khuy bằng đinh ốc. Phần cuối cùng là giấy. Giấy gồm hai tờ giấy chất liệu tốt, dai, cắt theo hình vòng cung khuyết. Giấy được dán vào nan quạt và dính với nhau trên phần nan quạt xòe ra. Để tạo sự bắt mắt, thẩm mỹ cho quạt giấy; nhà sản xuất thường in hình ảnh, logo hay slogan của công ty lên mặt giấy nhằm mục đích quảng cáo. Trong những cuộc múa của đồng bào Chăm, múa quạt là một đỉnh cao. Cái quạt trong tay các vũ nữ là con công, gà, phượng, rồng, bướm, là gió, mây, là tất cả…Vai giáo đầu của chèo bao giờ cũng cầm cái quạt trong tay để dãi bày, dở bài thơ ra ngâm, hơi che mặt nghiêng nghiêng làm duyên. Khi thi đỗ, Lưu Bình trở về thấy người yêu đã biến mất trong tay cầm cái quạt biết mở ra hay cụp vào. Chàng bỗng vung quạt lên và ngâm một câu bất hủ và ngơ ngác: "Nàng bỏ đi đâu? Phòng loan lạnh gắt". Trong vở "tuần ti đào Huế". Anh Tuần Ti trong tay chỉ có một cái quạt. Bên anh ta là vợ chính thức và người "vợ nhặt" yêu quý đang đánh ghen với nhau. Anh phải can ngăn dàn xếp. Cái quạt đã giúp anh che bên nọ, chắn bên kia. Cái quạt đã giúp anh lột tả được những giây phút bối rối, năn nỉ, bực mình, vui vẻ, hối hả, dàn hòa…Cái quạt thật chung thành với anh. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng thề bồi với cô Kiều cũng xòe quạt. Quạt này gọi là quạt thề, quạt ước. Nó giúp thể hiện trạng thái tâm hồn vui sướng hay sầu muộn, điên loạn hoặc mơ hồ, hoặc chói chang sắc lạnh. Có lúc lại chập chờn mê sảng. Cái quạt có giá trị rất lớn trong nghệ thuật chèo vì nó được sử dụng triệt để.
................
Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!