Bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về một loại động vật hoang dã - Những bài văn hay lớp 8

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 323,1 KB
Lượt tải: 2
Nhà phát hành: Sưu tầm


[Có thể bạn cần] Mời các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về một loại động vật hoang dã, đây là tài liệu giúp cho các bạn có thể bổ sung thêm kiến thức Ngữ văn lớp 8 của mình.

Giới thiệu

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về một loại động vật hoang dã, đây là tài liệu được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.

Trên thế giới có rất nhiều loài động vật khác nhau, nhưng động vật hoang dã đang được bảo vệ và có nhiều loài còn phải lưu vào sách đỏ. Dưới đây là một số bài văn mẫu thuyết minh về một loài động vật hoang dã, mời các bạn cùng tham khảo.

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã - Mẫu 1

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã

Từ xưa đến nay, trong những tác phẩm văn học kinh điển như Narian, Phù thuỷ hay cá những bộ phim nổi tiếng trên toàn thế giới như Lion King... đều có sự tham gia của những chú sư tử oai hùng, dũng mãnh. Đó chính là con thú mạnh nhất, giỏi nhất mà người ta thường gọi là chúa tể sơn lâm - chúa tể muôn loài.

Sư tử là động vật sống ở các đồng bằng rộng rãi. Vào khoảng 10.000 năm trước, sư tử có mặt ở rất nhiều nơi trên trái đất. Bây giờ do sự gia tăng của dân số loài người dẫn đến cây cối bị chặt bỏ, rừng bị tàn phá để có nhiều đất cho con người sinh sống, nên hiện nay sư tử chỉ còn một phần nhỏ nằm rải rác tại một vài nơi trên trái đất, nhiều nhất là ở châu Phi.

Sư tử có rất nhiều phân loài. Sư tử châu Phi chiếm số lượng lớn nhất,. Ngoài ra còn có sư tử châu Á, hiện đang sống ở vùng rừng Gir phía Tây Bắc Ấn Độ. Sư tử trắng sống ở Timbouati, Nam Phi. Mặc dù ít được nói đến do chúng còn rất ít nhưng sư tử trắng vẫn tồn tại, chúng có màu này là do gen lặn (sư tử trắng không có ưu thế khi đi săn, màu trắng của chúng dễ làm lộ chỗ ẩn nấp, rình mồi). Sư tử là biểu tượng của các gia đình hoàng gia và hiệp sĩ.

Sư tử cũng xuất hiện trong nghệ thuật của Trung Quốc mặc dù có lẽ sư tử chưa bao giờ sống ở Trung Quốc. Không có động vật nào xuất hiện nhiều hơn sư tử trong nghệ thuật và văn chương, C. A. W. Guggisberg trong cuốn sách Simba của mình nói rằng sư tử được nhắc tới 130 lần trong Kinh Thánh. Sư tử cũng được tìm thấy trong các bức vẽ trên vách hang thời kì đồ đá.

Trong tử vi Tây phương, sư tử (Leo) là một trong 12 chòm sao biểu tượng cho 12 cung hoàng đạo của con người. Theo truyền thuyết, nguồn gốc của chòm sao này là do nữ thần Hera vì thương tiếc con sư tử của mình đã chết trong khi làm nhiệm vụ nên bà đã hoá linh hồn con sư tử thành những vì sao lấp lánh trên trời.

Trong tự nhiên, sư tử thuộc họ mèo nhưng lại có bề ngoài to lớn, khác hẳn với họ hàng của mình. Trung bình một con sư tử đực trưởng thành nặng 189 kg, cao khoảng 1,2 m; sư tử cái nặng 126 kg, cao khoảng 1,1 m. Con sư tử nặng nhất được tìm thấy ở núi Kenya có cân nặng lên tới 272 kg.

Sư tử là một “con mèo lớn” với bộ lông màu cát có thể hoà lẫn một cách tuyệt vời với màu của những đồng cỏ xa-van, giúp chúng ngụy trang thật tốt khi đi săn mồi. Phía dưới phần bụng và hai bên sườn của sư tử có màu trắng, đặc biệt là ở sư tử cái. Phần trong cùng của tai và nhúm lông ở cuối đuôi có màu nâu sậm hoặc đen.

Một con sư tử trưởng thành có đến 30 cái răng, trong đó có 4 răng nanh làm nhiệm vụ cắn, xé thức ăn. Sư tử cũng dùng những móng vuốt thật cứng, sắc nhọn để săn mồi và cũng để tự bảo vệ mình.

Tiếng gầm của sư tử là một trong những đặc điểm nổi bật nhất. Nó bắt đầu biết gầm từ lúc một tuổi. Sư tử gầm lên không chỉ để cho các loài khác biết đây là lãnh thổ của mình mà còn để liên lạc, giao tiếp với những con sư tử khác trong đàn. Ngoài ra còn để ra oai, đe dọa với những con sư tử đối địch khác.

Điểm khác biệt lớn nhất giữa một con sư tử đực và cái chính là cái bờm. Chỉ có những con đực mới có bờm để cản lại những cú cắn và cào của đối thủ, có thể rất nguy hiểm cho mình. Màu sắc của bờm có thể thay đổi từ đen sang vàng hoe, và phủ đầy khắp mặt, cổ hoặc có thể chạy dọc theo cổ con sư tử.

Sư tử là loài thú săn mồi siêu hạng. Chúng sống tập trung theo bầy và thường săn bắt các loại thú lớn, nguy hiểm. Một bầy sư tử có khoảng từ 30 đến 40 con, diện tích lãnh thổ từ 20 đến 400 km2. Phần lớn là sư tử cái và con của chúng, chỉ có một số ít con đực. Trong đó con đầu đàn là mạnh nhất, khoẻ nhất làm nhiệm vụ lãnh đạo, bảo vệ cho cả đàn.

Săn mồi là một trong những công việc thường ngày của sư tử. Con mồi của chúng bao gồm ngựa vằn, trâu Hảo Vọng, hươu cao cổ, hà mã và thậm chí là voi gần trưởng thành. Khi đơn lẻ chúng dễ dàng săn các con mồi nhỏ hơn bao gồm linh dương, lợn rừng,... Những con sư tử sống gần bờ biển còn ăn thịt cả hải cẩu. Khi săn mồi đơn lẻ, chúng giết chết con mồi bằng cách cắn cổ đề làm gãy cổ hay tổn thương hệ tuần hoàn máu. Khi săn theo đàn, sư tử có thể kìm kẹp con mồi lớn trong khi các con khác cắn cổ hay làm nghẹt thở con mồi bằng cách khoá mõm nạn nhân, không cho nó thở. Sư tử không thích tự tìm thức ăn, thông thường chúng đẩy lùi các kẻ săn mồi khác nhỏ hơn hay ít quân số hơn từ con mồi để giành lấy thức ăn. Sư tử cũng hay bị đuổi khỏi con mồi bởi những kẻ cạnh tranh như các đàn linh cẩu và chó hoang khi chúng áp đảo về số lượng. Giống như các thú họ mèo khác, chúng nhìn trong đêm rất tốt làm cho chúng rất linh hoạt về đêm. Chúng có thể ngủ hơn 20 tiếng một ngày.

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã - Mẫu 2

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã

Chó sói là một trong những động vật hoang dã, loài ác thú đáng sợ nhất. Sói có bộ lông đen hoặc xám, cái mõm nhọn, răng sắc và cứng như thép, cặp mắt sáng quắc, đôi tai cực thính, cái đuôi dài, bốn chân cao, cứng cáp để phóng chạy như bay.

Sói là động vật cực khoẻ, khôn ranh, gan lì, thích nghi tốt với mọi điều kiện sinh hoạt và chịu đựng giỏi cả đói và lạnh. Sói sống theo đàn, từ ba, bốn con đến trên dưới mười con. Tiếng sói rú trên các thảo nguyên nghe thật rùng rợn.

Sói có thể săn bám mồi liên tục trong nhiều tiếng đồng hồ, có khi nó chạy với tốc độ 80km/h. Chúng rất háu ăn, và sau mỗi buổi nhịn đói một con sói nặng ba, bốn mươi cân có thể nuốt một lúc 20 - 25 kg thịt. Lúc đói sói trở nên liều lĩnh , tấn công vào những đàn gia súc có người bảo vệ, dám xâm nhập vào chuồng trâu, bò, cừu để bắt mồi.

Một vài số liệu đáng nhớ. Tại thành phố Các- ma- then, năm 1880, người ta dựng một đài kỉ niệm lạ lùng: con chó sói cuối cùng bị tiêu diệt. Đầu thế kỉ XX trên vùng thảo nguyên... bò, cừu bị sói ăn thịt. Tại Ka- dắc- xtan, chỉ trong vòng năm năm, người ta đã giết được trên dưới 8 vạn con sói.

Cũng như hổ, báo, sư tử các loài ác thú khác, sói đã và đang bị tiêu diệt dần.

Giờ đây, người ta đã hiểu rõ là ác thú rất cần thiết cho đời sống bình thường của các giống thú khác. Ác thú để cân bằng sinh thái, cân bằng tự nhiên và muôn loài. Giết sạch ác thú nghĩa là mang đến cho các giống thú khác tai họa to lớn hơn chính chúng gây ra. Ác thú cũng cần được bảo vệ là vì thế.

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã - Mẫu 3

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã

Trong thế giới hoang dã, hổ là loài săn mồi thiện chiến và hiệu quả nhất. Với thân hình to lớn nhưng thon gọn, sức mạnh phi thường, tốc độ nhanh, loài hổ trở thành nỗi kinh sợ của các loài động vật khác, trong đó có cả con người.

Hổ (còn gọi là cọp, ông ba mươi, chúa sơn lâm,…) là một loài động vật ăn thịt thuộc họ Mèo lớn thuộc chi Panthera. Tổ tiên của loài hổ ngày nay xuất hiện lần đâu tiên ở vùng Đông Á, khoảng 2 triệu năm trước. Sau đó loài hổ phát triển rộng theo hướng rừng rậm và sông ngòi Tây Bắc tiến sâu vào khu vực Tây Nam Châu Á.

Một bộ phận khác men theo hướng Nam tiến sâu vào khu vực Đông Nam Á, lục địa Ấn Độ và quần đảo Indonexia. Trong quá trình phát triển, tìm kiếm nguồn thức ăn và vùng lãnh địa mới, loài hổ đã phát triển ra khắp thế giới, hình thành các giống hổ như ngày nay.

Nhìn chung, một con hổ trưởng thành thường có khối lượng từ 100 đến 300 kilôgam. Hổ có thân hình to lớn nhưng thon, ốm, gầy để di chuyển nhanh nhẹn. Đó là cơ thể phù với đặc tính hoang dã của hổ.

Toàn bộ cơ thể của hổ phủ một lớp lông mềm mại. Lông hổ thường có màu cam, hoặc xám, hoặc trắng được tô điểm bởi những vằn lông theo hình lượn sóng. Các vằn của phần lớn các loài hổ dao động trong khoảng nâu xám tới đen thuần. Hổ trắng có rất ít các vằn. Hình dạng và mật độ các vằn thay đổi theo từng loài. Nhưng phần lớn các loài đều có trên 100 vằn.

Sự phối sắc độc đáo của bộ lông khiến cho hình ảnh con hổ gây nhiều ấn tượng trong thế giới tự nhiên. Với màu vàng cam và những lằn đen dễ hòa lẫn trong màu sắc của cỏ khô, giúp hổ mai phục và tiến sát con mồi mà không bị phát hiện.

Hổ có đôi tai nhỏ nhưng rất thính. Tai hổ thường xuyên dựng cao để thu bắt âm thanh. Răng nanh hổ dài. Đôi hàm của hổ khỏe khoắn có thể nghiền nát xương dễ dàng. Móng vuốt nhọn sắc. Đây là vũ khí lợi hại giúp hổ có thể hạ gục nhanh chóng những con mồi to lớn như trâu rừng, bò rừng, hưu, nai. Khi di chuyển, toàn bộ móng vuốt thu vào bên trong chỉ có vùng đệm thịt dày chạm đất khiến cho bước chân của hổ hết sức nhẹ nhàng, uyển chuyển. Mắt hổ rất tinh, có thể nhìn cả trong ban đêm. Bởi thế, hổ thường săn mồi từ chiều hôm cho đến sáng sớm. Thời gian còn lại nó thường ẩn trong rừng sâu.

Hổ sở hữu một sức mạnh phi thường. Một con hổ khi săn mồi có thể di chuyển với vận tốc 40km/h. Hổ có thể vật ngã và giết chết con mồi nặng gấp đôi chúng. Kĩ năng mai phục và tấn công con mồi nhanh gọn rất hiệu quả. Nếu tính về hiệu xuất săn mồi, hổ là loài đứng đầu danh sách trong thế giới động vật.

Nhìn chung, ở loài hổ tập trung tất cả những đặc điểm ưu việt nhất của loài động vật săn mồi. Với sức mạnh vượt trội, hổ trở thành một loài săn mồi đáng sợ nhất trên mặt đất. Dù ngày nay, số lượng cá thể hổ không còn nhiều nhưng chúng vẫn là loài chiếm lĩnh và làm chủ các khu rừng rậm.

Phần lớn các loài hổ sống trong rừng và đồng cỏ (là những khu vực mà khả năng ngụy trang của chúng phù hợp nhất). Phổ biến nhất là ở các khu rừng râm Chấu Á, Ấn Độ, Đông Nam Á.

Hổ thường đi săn đơn lẻ. Đôi khi, người ta cũng thấy chúng phối hợp với nhau để săn bắt con mồi. Tuy nhiên, điều này ít khi xảy ra. Thức ăn của chúng chủ yếu là các động vật ăn cỏ cỡ trung bình như hươu, nai, lợn rừng, trâu,… Tuy nhiên, chúng cũng có thể bắt các loại mồi cỡ to hay nhỏ hơn nếu hoàn cảnh cho phép. Một con hổ có kích thước trung bình có thể ăn tới 27 kg thịt mỗi bữa.

Hổ là loài động vật đẻ con. Mỗi lứa hổ sinh khoảng 2-3 con. Hổ con sống với mẹ khoảng 2-3 năm thì ra ở riêng. Lúc này hổ con đã trưởng thành và đủ khả năng sinh sản.

Tuổi thọ, trong môi trường nuôi nhốt hổ có thể sống tới 20 năm. Nhưng trong môi trường hoang dã tuổi thọ của chúng dao động từ 10 tới 15 năm.

Trong tự nhiên: Hổ là một trong số nhiều loài động vật ăn thịt nằm ở mắt xích cuối cùng của các chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái tự nhiên. Việc tồn tại của hổ giúp cho tự nhiên cân bằng chuỗi thức ăn, điều phối số lượng các loài động vật ăn cỏ và ăn thịt khác.

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã - Mẫu 4

Thuyết minh về một loại động vật hoang dã

Cá sấu là một loài động vật khá phổ biến tại các nước miền nhiệt đới nơi có nhiều sông hồ và đầm lầy. Với bản tính săn mồi dữ tợn, hung ác, kĩ năng giết chóc đáng sợ, cá sấu vừa được con người tôn kính vừa khiếp sợ chúng.

Ngày nay, do môi trường sống bị thay đổi và sự săn lùng ráo riết của con người, số lượng cá sấu trên thế giới suy giảm. Song hằng năm chúng vẫn còn gây ra nhiều cái chết thương tâm cho con người.

Cá sấu là một loài động vật ăn thịt, thuộc lớp bò sát, sống chủ yếu ở dưới nước. Chúng xuất hiện trên trái đất từ khoảng 84 triệu năm trước, vào cuối kỷ Phấn trắng. Thuật ngữ cá sấu trong tiếng Việt bao gồm các dạng cá sấu đích thực, mõm ngắn và mõm dài. Tuy nhiên, nó cũng được áp dụng để chỉ các họ hàng xa thời tiền sử của chúng. Chẳng hạn như “cá sấu biển”. Có một thời gian dài loài này thống trị cả trái đất.

Cá sấu là loài to lớn và có cấu tạo phức tạp nhất trong các loài bò sát còn tồn tại cho đến ngày nay. Về cơ bản, cơ thể loài bò sát này có hình thuôn dài, được phủ một lớp vảy sừng chắc chắn. Cơ thể chúng chia làm ba phần rõ rệt: phần đầu, phần thân và phần đuôi. phần đầu cá sấu chiếm đến 1/3 chiều dài cơ thể chúng.

Đầu cá sấu dẹp bằng. Chiếc mõm rất dài với bộ răng hàm chắc khỏe. Răng thường cong vào bên trong, rất sắc nhọn. Đôi hàm rất khỏe. Đó là đôi hàm khỏe nhất trong các loài động vật. Một khi con mồi rơi vào hàm ấy thì không có cơ hội sống sót.

Đôi mắt nhỏ nằm phía trên, có tầm nhìn kém. Bù lại, chúng có thể cảm nhận mọi chuyển động trong nước rất tốt, xác định con mồi và tấn công một cách chính xác. Lưỡi dày bất động. Lỗ mũi và tai có màng chắn nước. Thế nên cá sấu có thể ẩn mình trong nước nhiều giờ.

Phần thân của chúng thường rất to lớn. Chúng có chi trước ngắn, chi sau dài hơn. Bàn chân bè ra như chiếc chèo bơi. Đầu các ngón chân có móng sừng giúp con vật không bị trơn trước khi di chuyển trên cạn. Chính đặc điểm này giúp các sấu có thể bơi nhanh và nhẹ nhàng trong nước và cả trên cạn. Đuôi cá sấu dài gần bằng thân. Chiếc đuôi khỏe mạnh có vai trò như một chiếc bánh lái, giúp cá sấu điều hướng dễ dàng khi bơi.

Kích thước của sấu thay đổi đáng kể theo loài và theo độ tuổi. Một số loài lớn cớ thể dài từ 5 đến 6 mét và nặng khoảng 1.200 kg. Tuy nhiên, lúc mới sinh, con non chỉ dài khoảng 20 cm và năng vài chục gram.

Một số loài cá sấu ở Châu Úc có kích thước khổng lồ. Chúng trở thành nỗi khiếp sợ của các loài sống dưới nước và cả con người.

Cá sấu là các loài bò sát lớn ưa thích môi trường nước. Chúng sống trên một diện tích rộng của khu vực nhiệt đới trên thế giới. Đầm lầy, ao hồ, sông suối thường là nơi chúng sinh sống. Chúng là loài ăn thịt và là tay đi săn mồi cừ khôi. Thức ăn của chúng khá đa dạng. Chủ yếu là cá và động vật có vú, kể cả còn sống hay đã chết. Chúng tấn công tất cả những gì chuyển động ở dưới nước. Loài bò sát này rất nhạy cảm với máu. Khi phát hiện con mồi bị thường, chúng tấn công tới cùng đến khi hạ gục con mồi.

Cách bắt mồi của cá sấu rất đặc sắc. Khi bắt được con mồi, chúng liền xoay mình để nhấn chìm con mồi xuống nước. Cú xoay của chúng có thể bẻ gãy mọi khớp xương, khiến con mồi chết ngay tức khắc. Sau đó chúng xé xác con mồi và thưởng thức ngay dưới nước.

Về sinh sản, tất cả cá sấu là loài đẻ trứng. Mỗi đợt sinh sản có thể để từ 30-70 trứng. Trong tự nhiên, suốt thời gian ấp trứng con mẹ không đi kiếm mồi mà nằm ngay bên cạnh để canh giữ. Đến thời kì sắp nở khi nghe tiếng kêu của con con, con mẹ sẽ bới đất hỗ trợ, mang sấu con đến nơi có nguồn nước.

Con non mới nở nặng khoảng vài trăm gam và được mẹ chăm sóc trong vài tuần lễ đầu. Sau đó những chúng tự tách khỏi đàn để sống cuộc đời tự lập. Khi đến 4-5 tuổi, cá sấu cơ bản đã trưởng thành và bắt đầu sinh sản. Một con sấu trưởng thành có thể dài đến hơn 6 mét và nặng khoảng 1000 kg. Cá sấu có thể sống đến hơn 100 năm tuổi.

Năm 1997, ở Nga người ta đã phát hiện một con cá sấu vừa chết có tuổi thọ 115 tuổi. Đó là cá thể lớn nhất được phát hiện. Trong suốt cuộc đời của cá sấu ít khi chúng rời khỏi mặt nước. Trên mặt đất. chúng tỏ ra rất vụng về.

Trong tự nhiên: sấu là loài săn mồi đáng sợ và rất hiệu quả. Chúng rất kiên nhẫn nằm mai phục đợi chờ con mồi. Khi phát hiện, chúng nhẹ nhàng di chuyển và tung ra những cú đớp chuẩn xác và đầy chết chóc. Hằng năm trên thế giới có hàng nghìn người đã bỏ mạng dưới nanh cá sấu. Trong thế chiến thứ II, tại Myanmar, một trung đoàn biệt kích 1215 binh lính Nhật Bản đã bị xóa sổ bởi đàn cá sấu đầm lầy đói khát. Đến nay, cá sấu nước mặn vẫn được coi là động vật ăn thịt nguy hiểm và hiếu chiến nhất trên trái đất.

..................

Mời các bạn có thể tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!

download.com.vn