Bài văn mẫu lớp 9: Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong bài Nói với con của Y Phương - Những bài văn mẫu hay nhất lớp 9
Nội dung chi tiết:
Download.com.vn xin giới thiệu đến các bạn tài liệu Bài văn mẫu lớp 9: Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong bài Nói với con của Y Phương được chúng tôi tổng hợp chi tiết, chính xác và đăng tải ngay sau đây.
Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong bài Nói với con của Y Phương là tài liệu vô cùng bổ ích, giúp các bạn học sinh ôn tập, củng cố kiến thức, giúp các em học tốt môn văn 9, cũng như ôn thi vào lớp 10 môn Văn hiệu quả nhất. Sau đây là nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong bài Nói với con
I. Mở bài:
- Là nhà thơ dân tộc Tày, thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
- Ra đời năm 1980, “Nói với con” là một trong những bài thơ hay nhất của ông.
- Mượn lời tâm sự với con, Y Phương đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” – của con người quê hương miền núi.
II. Thân bài:
1. Khái quát (Dẫn dắt vào bài):
- Tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Y Phương, bài thơ “Nói với con” gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người – gia đình và quê hương – đó là nôi êm tổ ấm nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn con – đó là cội nguồn của hạnh phúc. Để rồi từ trong những ngọt ngào của kỉ niệm quê hương, người cha nói với con những đức tính tốt đẹp của người đồng mình.
2. Phân tích, cảm nhận những vẻ đẹp (đức tính tốt đẹp) của người đồng mình:
a. Người đồng mình đáng yêu bởi sự giản dị và tài hoa:
- Trên quê hương thơ mộng nghĩa tình, người đồng mình hiện lên trong cuộc sống lao động cần cù mà tươi vui:
"Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát".
+ Giọng thơ vang lên đầy thiết tha và tự hào. “Người đồng mình” là người bản mình, người quê mình – Y Phương có cách gọi rất độc đáo, rất gần gũi và thân thương về những con người quê hương.
+ Với hình thức câu cảm thán, người đọc cảm nhận lời tâm tình được cất lên tự đáy lòng thương mến của người cha về người đồng mình.
+ Họ đáng yêu bởi họ là những con người yêu lao động. Với đôi bàn tay tài hoa, khéo léo, họ đã “đan”, “cài”, “ken”… cuộc sống như nở hoa dưới đôi bàn tay cần cù, sáng tạo của họ…
=> Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, nhà thơ giúp ta hình dung được hình ảnh đáng yêu của người đồng mình giữa núi rừng thơ mộng, hiền hòa. Vẻ đẹp của họ được gợi ra từ cuộc sống lao động bình dị, từ bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo. Họ có niềm vui giản dị, tinh tế ngay trong cuộc sống mộc mạc đời thường.
b. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước.
- Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:
"Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn".
+ Với cách nói “Người đồng mình thương lắm con ơi!” người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.
+ Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.
+ Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.
=> Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.
c. Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn:
“Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
+ Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” -> gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.
+ Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.
-> Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của quê hương.
+ Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: Người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
+ Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
d. Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:
- Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói cụ thể về những con người mộc mạc, giản dị.
+ Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.
-> Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí.
- Cùng với ý thức tự lực, tự cường, người đồng mình còn ngời sáng tinh thần tự tôn dân tộc và khát vọng xây dựng quê hương:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
+ Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi), vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu, sánh tầm với các miền quê khác trên mảnh đất hình chữ S thân yêu.
+ Câu thơ ngầm chứa niềm tự hào kiêu hãnh bởi họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
3. Nhận xét, đánh giá:
Với thể thơ tự do, giọng điệu khỏe khoắn vừa tâm tình tha thiết vừa chứa chan hi vọng cùng những hình ảnh, từ ngữ mộc mạc, cụ thể -> nhà thơ nói với con về những vẻ đẹp của người đồng mình để rồi từ đó truyền cho con lòng tự hào về quê hương, dân tộc, nhắn nhủ con biết sống đẹp, biết vượt qua gian khó bằng niềm tin, ý chí như người đồng mình.
III. Kết bài:
Qua lời thủ thỉ, tâm tình của người cha đối với con, hình ảnh của quê hương, của người đồng mình hiện lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là mạch suối ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và ý chí cho con. Đọc bài thơ, hiểu về vẻ đẹp của những con người quê hương, ta yêu hơn, trân trọng hơn những con người làm giàu đẹp quê hương, đất nước.
Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong bài Nói với con - Mẫu 1
Y Phương nhà thơ dân tộc Tày, với điệu thơ hồn hậu, chân thân, cách tư duy giàu hình ảnh đã tạo nên thi phẩm xuất sắc “Nói với con”. Tác phẩm được sáng tác năm 1980, là lời tâm sự của ông với người con đầu lòng, qua lời tâm tình hết sức chân thật đó, tác giả có những cảm nhận hết sức sâu sắc về đức tình tốt đẹp của người đồng mình.
Con được sinh ra và lớn lên không chỉ bởi tình yêu thương của cha mẹ. Mà con được lớn lên từ sự yêu thương, đùm bọc của tình làng nghĩa xóm. Nơi đó chính là nguồn cội của hạnh phúc, là hành trang để con vững bước vào đời. Từ những lời thơ tha thiết nói về cội nguồn sinh dưỡng của con, Y Phương đưa ra những cảm nhận sâu sắc, chân thành về vẻ đẹp của người đồng mình.
Người đồng mình trước hết đáng yêu bởi sự giản dị, tài hoa. Trong cuộc sống lao động, họ cần cù làm lụng, trong tiếng hát tiếng cười:
Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Giọng thơ vang lên đầy tha thiết và tự hào về đức tính tốt đẹp của người đồng mình. Y Phương có cách gọi rất độc đáo, gần gũi, “người đồng mình” – là người bản mình quê mình, gợi nên sự gần gũi, thân thương, tiếng gọi đầy ân tình với những con người quê hương. Kết hợp cùng hình thức câu cảm thán, đã cho người đọc cảm nhận được tấm chân tình được vang vọng từ đáy lòng tác giả. Với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa họ đã “đan” “cài” “ken” những vật dụng bình thường trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Với niềm vui và lòng hăng say lao động họ biến cuộc sống của mình thành những bông hoa tươi rực rỡ, ngập đầy sức sống.
Không chỉ vậy, người đồng mình con biết lo toan và giàu mơ ước. Họ không chỉ giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà luôn biết lo nghĩ cho tương lai, sống đầy mơ ước, lí tưởng:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Câu thơ đầu thể hiện tình yêu thương chân thành trước những gian truân, khó khăn mà người đồng mình phải trải qua trong cuộc sống. Đặc biệt, đến hai câu thơ tiếp theo, ông vận dụng lối tư duy độc đáo, giàu hình ảnh: lấy chiều cao để đo nỗi buồn, lấy cái xa để đo ý chí của con người. Hai từ cao và xa sắp xếp theo chiều tăng tiến, cho thấy rằng khó khăn càng nhiều thì ý chí, nghị lực của con người càng lớn lao, mạnh mẽ. Trong cuộc sống của họ còn nhiều bộn bề, khó khăn, thiếu thốn nhưng bằng ý chí của mình, họ sẽ vượt lên tất cả để hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn của bản thân và dân tộc mình.
Cuộc sống của người đồng mình cực khổ, nghèo khó là vậy, nhưng họ chưa một lần trong suy nghĩ có ý định rời bỏ quê hương. Họ luôn yêu quê hương tha thiết và nguyện gắn bó với nơi đây trọn đời:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Khổ thơ sử dụng biện pháp điệp ngữ “sống...” và hình ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh” cho thấy sự gian nan, vất vả, cực nhọc trong cuộc sống của những con người nơi đây. Họ quanh năm lam lũ làm ăn nhưng họ “sống” “không chê” nghèo đói cực nhọc, không chê những thiếu thốn về vật chất. Họ chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và sống thủy chung, ân tình với quê hương. Phải chăng chính cuộc sống nhiều gian nan vất vả đó đã tôi rèn ý chí, tiếp cho họ sức mạnh để băng qua mọi khó khăn, vượt qua mọi thử thách.
Và vẻ đẹp phẩm chất cuối cùng chính là người đồng mình có ý chí tự lập, tự cường và lòng tự tôn dân tộc cao: “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/ Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Lời thơ chân thành, mộc mạc mà giản dị nhưng chứa đựng biết bao tâm tư và niềm tự hào của tác giả. Câu thơ đã phản ánh tầm vóc, sức mạnh của người đồng mình: họ có thể nhỏ bé, mộc mạc nhưng giàu ý chí, niềm niền, họ có thể thô sơ về da thịt, nhưng tâm hồn ý chí thì lớn lao mạnh mẽ. Họ tự lực, tự cường, đục đá kê cao quê hương, làm cho quê hương giàu đẹp, phát triển. Câu thơ ngầm chứa niềm kiêu hãnh, tự hào của tác giả đối với người đồng mình.
Với thể thơ tự do, kết hợp cùng giọng điệu khỏe khoắn, thiết tha, ngôn ngữ mộc mạc, trường liên tưởng giàu hình ảnh, nhà thơ đã khái quát chính xác những vẻ đẹp của người đồng mình. Vẻ đẹp đó chính là cuội nguồn nuôi con khốn lớn, trưởng thành, bồi đắp cho con ý chí, nghị lực trên bước đường tương lai. Đọc bài thơ ta càng yêu mến và tự hào hơn những con người biết làm giàu đẹp cho quê hương.
Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong bài Nói với con - Mẫu 2
Y Phương là nhà thơ quen thuộc với những người miền núi, thơ của ông bình dị, mộc mạc, gần gũi. Bài thơ Nói với con là những lời tâm sự thủ thỉ của người cha dành cho con, đồng thời khuyên con trưởng thành phát huy vẻ đẹp của người đồng mình.
Người đồng mình mà tác giả nói đến là người cùng vùng miền cùng sinh sống với nhau. Trong bài thơ “người đồng mình” xuất hiện khi thực hiện công việc hàng ngày thân thuộc:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Họ đang làm những công việc thường nhật với sự khéo léo, tỉ mỉ, những từ “đan”, “cài” mô tả các hoạt động nhưng cũng nói lên sự tài hoa, chăm chỉ của người dân. Người đồng mình hiện lên thật gần gũi, gắn bó với nhau. Khoảng cách giữa con người không còn thay vào đó tình cảm gắn bó như những người anh em ruột thịt trong một gia đình.
Chỉ bằng một đoạn thơ ngắn nhưng tác giả đã giúp người đọc hiểu hơn về cuộc sống nơi đây với những con người gắn bó, với sự tài hoa của mình họ đang thay da đổi thịt quê hương, giúp cuộc sống thêm niềm vui và màu sắc. Con người miền núi có sự hài hòa với thiên nhiên làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa.
Với tác giả “Người đồng mình” không chỉ giỏi giang, cần cù mà còn cả ý chí, nghị lực giúp cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn, đó là những dòng thơ tiếp theo:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Tác giả thương cho những con người miền quê, tình cảm chân thành mà sâu sắc. Nghệ thuật đối lập sử dụng đó là ” cao đo – xa nuôi”, “nỗi buồn – chí lớn”, tác giả nhận biết được những lo lắng trong những con người vì sự khó khăn khi quê hương còn đói nghèo đeo bám nhưng họ vẫn cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Những câu thơ thể hiện ý chí mạnh mẽ, quyết tâm của người dân miền núi trong công cuộc đổi mới quê hương.
Tinh thần vượt khó, thủy chung là điều mà tác giả muốn nói đến người đồng mình:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Mặc cho điều kiện sống khó khăn “sống trên đá”, “sống trong thung” nhưng người dân nơi đây vẫn không ngại khó, ngại khổ, sống với cái nghèo nhưng không chê quê hương nghèo khó. Y Phương muốn nói đến sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt của con người nơi đây đồng thời muốn khen ngợi tinh thần, bản lĩnh của những con người quê hương mình.
Họ luôn là những con người bằng xương thịt “thô sơ da thịt” thật giản dị, chân thật nhưng không bao giờ nhỏ bé, với quyết tâm đó người đồng mình mong muốn xây dựng quê hương giàu mạnh hơn. Niềm tự hào cùng với sự cần chù, chăm chỉ sẽ giúp họ thành công.
Qua những lời kể của cha với con, người đồng mình hiện lên với nhiều vẻ đẹp khác nhau, sự tài giỏi, chăm chỉ và ý thức mong muốn xây dựng phát triển quê hương của những người dân tộc Tày. Vẻ đẹp, sức sống đó chính là niềm tự hào về quê hương của tác giả Y Phương.
..............
Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết