Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương - Những bài văn mẫu hay nhất lớp 9

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 268,5 KB
Lượt tải: 1
Nhà phát hành: Sưu tầm


Tuần này có gì - Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương là tài liệu rất hữu ích mà Taifull.net muốn giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bạn học sinh lớp 9 tham khảo.

Giới thiệu

Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã bày tỏ những niềm xót xa, đồng cảm với thân phận bọt bèo, nổi trôi của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương. Giá trị nhân đạo và hiện thực mà tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc bao niềm xót thương và đồng cảm.

Sau đây để giúp các bạn học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Download.com.vn xin giới thiệu dàn ý chi tiết và 3 bài văn mẫu phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương. Mời các bạn cùng tham khảo trong bài viết dưới đây.

Dàn ý phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo

 Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

I. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Dữ: Là cây bút kì tài của văn học cổ Việt Nam, sống ở thế kỉ XVI, trong tình hình xã hội Việt Nam không còn ổn định. Con người, nhất là phụ nữ, phải chịu nhiều đau khổ do chế độ phong kiến bất công gây nên.

- Tác phẩm: Truyền kì mạn lục là một tập truyện viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ phản ánh những mặt xấu xa của chế độ phong kiến đương thời một cách có ý thức, qua đó tỏ bày thái độ của tác giả.

- Chuyện người con gái Nam Xương cũng như nhiều truyện trong tập Truyền kì mạn lục có giá trị về nhiều mặt, trong đó nổi bật các giá trị hiện thực, nhân đạo, nghệ thuật dựng truyện.

II. Thân bài

1. Giá trị hiện thực: Truyện tố cáo xã hội phong kiến bất công, gây nhiều đau khổ cho người phụ nữ.

- Phóng tác một câu chuyện xảy ra và được lưu truyền trong dân gian hàng trăm năm về trước (cuối đời Trần đến đời Hồ, tức từ cuối thế kỉ XIV đến đầu thế kỉ XV), Nguyễn Dữ muốn mượn chuyện xưa để nói chuyện nay (thế kỉ XVI, thời Nguyễn Dữ sống).

* Chiến tranh, loạn lạc gây ra đau khổ cho con người

- Trương Sinh ra lính, phải xa cách mẹ già, vợ trẻ.

+ Buổi chia li thật ngậm ngùi xót xa. Bà mẹ dặn con: “… nhưng trong chỗ binh cách, phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy”. Người vợ tiễn chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.

+ Xa con, bà mẹ nhớ con sinh ra ốm. Người vợ trẻ Vũ Thị Thiết vừa nuôi con thơ, vừa tận tình thuốc thang chạy chữa cho mẹ chồng. Nhưng không cứu nổi, mẹ chồng mất, nàng một mình lại lo liệu việc ma chay.

- Người dân chạy loạn, đắm thuyền, chết đuối cả.

- Lễ giáo phong kiến bất công khiến cho người đàn ông có được quyền hành hạ, ruồng rẫy người phụ nữ, dẫn đến cái chết đầy oan khuất của người vợ chung thủy, hiếu nghĩa. Đọc truyện, ta phẫn uất trước cái chết của Vũ Nương, một người phụ nữ tiết hạnh, chỉ có công chứ không có một chút tội lỗi nào.

- Vì đâu gây nên nỗi oan khuất đó ?

+ Có phải do thói ghen tuông của Trương Sinh bởi cả tin ở lời của một đứa trẻ ? – Đúng là có điều đó.

+ Nhưng căn nguyên sâu xa là do sự bất công của lễ giáo phong kiến: trong quan hệ vợ chồng dưới chế độ phong kiến, chỉ có người chồng là có toàn quyền đối với người vợ, bất kể đúng sai, như trong truyện: Trương Sinh nghi oan cho vợ, không nói thẳng với vợ, không thèm nghe lời thanh minh, nên đã dẫn đến cái chết thảm thương của người vợ vô tội.

+ Giá trị tố cáo càng cao khi Vũ Nương tuy oan đã được giải, nhưng nàng không thể nào trở lại cõi trần với chồng con được nữa; Vũ Nương thà trở về sống dưới thủy cung còn hơn sống trên cõi đời đầy oan khuất, đầy đau khổ của chế độ phong kiến đương thời.

2. Giá trị nhân đạo: Truyện để cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: đảm đang, hiếu nghĩa, chung thủy.

* Truyện đã xây dựng nên hình tượng Vũ Nương, một hình tương phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý:

- Đảm đang

+ Khi chồng ra lính, Vũ Nương đã một mình: nuôi dạy con thơ, nuôi dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi ốm đau, lo liệu ma chay khi mẹ chồng mất.

- Hiếu nghĩa

+ Với mẹ chồng, Vũ Nương giữ tròn chữ hiếu của người con đối với cha mẹ, thay chồng nuôi mẹ chồng, coi mẹ chồng như mẹ đẻ của mình.

- Với chồng, Vũ Nương trước sau vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình:

+ Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.

+ Khi xa chồng, nàng không để xảy ra điều tai tiếng gì.

+ Khi bị nghi oan, không thể giãi bày được, nàng lấy cái chết để chứng thực nghĩa tình của mình.

+ Sau khi tự vẫn, được “cứu sống” (“sống” ở thủy cung), tuy cuộc sống thanh thản, sung sướng, nàng vẫn nhớ đến chồng, mong được chồng biết đến nỗi oan và giải oan cho mình.

- Trong trắng, thủy chung

+ Vũ Nương hoàn toàn vô tội (giữ trọn nghĩa tình vợ chồng) nhưng lại bị nghi oan, dù có giãi bày cũng không gỡ ra được nên nàng phải chết với lời thề: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ Nương tin ở tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Nên sau khi chết đã được như lời nguyền: “Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá…”, rồi được Linh Phi cho sống sung sướng trong cung…

+ Tiết nghĩa của Vũ Nương là như vậy, nhưng như trên đã nói: oan được giải, gặp lại chồng nhưng nàng không thể trở lại sống ở cõi đời được. Câu chuyện càng thương tâm. Và tấm lòng nàng càng sáng tỏ.

3. Giá trị nghệ thuật: Truyện có nhiều thành công về nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính, tập trung làm nổi bật nỗi oan của Vũ Nương, gây xúc động đối với người đọc

- Xuyên suốt câu chuyện, trong mọi tình tiết, chi tiết, có dịp là tác giả giới thiệu, khẳng định, ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Để nhân vật (Vũ Nương) nói nhiều lần trong tác phẩm, giọng nói khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết khiến người đọc càng xúc động.

- Cách xây dựng tình tiết, thắt nút, gỡ nút đẩy bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó:

+ Thắt nút bằng yếu tố bất ngờ: Một câu nói ngây thơ nghe như thật của một trẻ thơ mà gây nên bão táp trong cuộc đời vợ chồng Trương Sinh, Vũ Nương: chồng nghi kị vợ, hạnh phúc gia đình tan vỡ và cuối cùng là cái chết bi thảm của người vợ trong trắng.

+ Gỡ nút cũng bằng yếu tố bất ngờ: Bấy nhiêu bão tố, bi kịch, oan khiên bỗng được làm sáng tỏ cũng bằng một câu nói ngây thơ của một trẻ thơ (“Cha Đản lại đến kia kìa !”), hay nói cho đúng hơn là lời nói đùa của người mẹ với con khi vắng chồng.

III. Kết bài

- Chuyện người con gái Nam Xương là một chuyện tình yêu đầy oan khuất. Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan. Thật là vô lí và bất công khi toàn bộ bi kịch đó là do một lời nói đùa của người mẹ mà đứa con thơ dại đã ngây thơ nói lại. Người đọc càng thương cảm, phẫn uất khi hiểu ra rằng: Vũ Nương chỉ là một nạn nhân của lễ giáo phong kiến bất công đối với người phụ nữ mà Nguyễn Dữ đã phản ánh một cách khá chân thực trong tác phẩm của mình.

- Vũ Nương là một hình tượng nhân vật phụ nữ đẹp trong văn chương Việt Nam, thế kỉ XVI. Cái chết bi thảm của Vũ Nương, ngoài giá trị lên án xã hội phong kiến đương thời, còn sáng ngời tiết nghĩa của một người phụ nữ đức hạnh, phù hợp với cách đánh giá của dân gian đối với hình tượng nhân vật và câu chuyện đầy xúc động này.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo - Mẫu 1

Trong xã hội cũ, thân phận nữ nhi vẫn luôn ở mức dưới đáy của xã hội. Dù họ có tốt đẹp, có trong sáng đến mấy cũng không có quyền được sống tự do, được hưởng trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc. Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã bày tỏ những niềm xót xa, đồng cảm với thân phận bọt bèo, nổi trôi của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương. Giá trị nhân đạo và hiện thực mà tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc bao niềm xót thương và đồng cảm.

Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn đương thời có tấm lòng thương cảm sâu sắc với những người cùng khổ trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ. Vì thế, trong những áng văn của ông vẫn luôn nêu rõ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo rất sâu sắc.

Đối với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương cũng vậy, Nguyễn Dữ đã dựng nên hình ảnh một người thiếu phụ hoàn hảo mang tên Vũ Thị Thiết, thường gọi là Vũ Nương. Nàng vừa đẹp người lại đẹp nết. Trái tim nàng cũng khao khát một cuộc sống bình yên và hạnh phúc nhưng sự éo le và khổ hạnh vẫn luôn ập đến khi nàng sống dưới chế độ xã hội phong kiến đầy bất công. Số phận hẩm hiu và những ngang trái trong cuộc đời người thiếu phụ trẻ cũng là số phận chung của bao người phụ nữ đương thời trong xã hội ấy. Xây dựng nên nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã cho nàng hội tụ đầy đủ những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: hiền lành, ngoan ngoãn, công – dung – ngôn – hạnh đều đủ cả. Và rồi, Vũ Nương cũng bước vào cuộc sống làm vợ, làm dâu. Vốn tính thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp, nên dù Trương Sinh – chồng nàng có đa nghi đến mấy cũng không bao giờ nàng để gia đình phải thất hòa. Không những thế, khoảng thời gian Trương Sinh đi lính đánh giặc, Vũ Nương một mình ở nhà vừa chăm con nhỏ vừa đỡ đần mẹ chồng già yếu bệnh tật. Nàng vừa là mẹ mà cũng là cha, vừa là con dâu mà cũng là con trai an ủi mẹ già không khác gì mẹ ruột của mình. Khi bà ốm, Vũ Nương hết lòng chăm sóc, thuốc thang, cúng bái cầu xin thần phật nhưng bà vẫn không qua khỏi. Nàng lại hết lời thương xót, làm ma chay chu đáo cho mẹ.

Vũ Nương đã tận tụy hi sinh cả tuổi xuân đang phơi phới của mình cho chồng cho con nhưng những gì nàng nhận lại được hoàn toàn trái ngược lại với lẽ tự nhiên. Bởi lẽ ra nàng sẽ hạnh phúc vô cùng khi chồng bình yên từ chiến trận trở về. Nhưng tai họa đã ập đến. Trương Sinh nghe theo lời con nhỏ mà kết án vợ hư hỏng, đã thất tiết khi mình đi vắng. Chàng đánh đuổi vợ ra khỏi nhà, một mực không cho nàng giải thích, có giải thích chàng cũng không nghe. Vũ Nương – một người phụ nữ chân yếu tay mềm, lại sống trong xã hội phong kiến với chế độ nam quyền, nàng không thể nào minh chứng cho sự trong sạch của mình được. Bất đắc dĩ, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết. Tấm lòng thủy chung son sắt, một người con dâu hiếu thảo, một người vợ chung thủy nay đã bị chính người chồng của mình, người mà ngày đêm nàng mong nhớ, sỉ nhục nàng, làm tổn thương sâu sắc đến nàng. Không gì tủi hổ hơn khi người mà mình đã hết lòng thương yêu và nhung nhớ nay cầm con dao cứa thẳng vào trái tim mình. Nàng ôm đau thương và ai oán đến bến Hoàng Giang gieo mình tự vẫn. Có lẽ chỉ có cái chết mới minh chứng được sự trong sạch của nàng.

Cái chết của Vũ Nương đã một lần nữa nói lên một cách chân thực về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ luôn khát khao hạnh phúc, khát khao một tổ ấm gia đình nhưng khi sóng gió ập đến, họ không thể nào được làm chủ cuộc đời mình. Lúc ấy, chỉ có cái chết mới có thể giải thoát được họ khỏi những đau thương. Qua đó, Nguyễn Dữ đã gián tiếp tái hiện lại sự bất công của xã hội cũ đã đẩy người phụ nữ vào cái chết, chết oan ức, chết bi thương.

Nhưng sau đó, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm những tình tiết ly kỳ khiến câu chuyện vừa hấp dẫn vừa mang kết thúc có hậu và thỏa đáng, khiến người đọc cũng cảm thấy được an lòng. Đây cũng chính là niềm đồng cảm và sự xót thương của tác giả với những thân phận hẩm hiu của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Sau khi chết, Vũ Nương đã được các nàng tiên cứu giúp vì bản tính đức hạnh và phẩm giá cao quý của nàng. Chính cái chết đã giúp nàng được hồi sinh, được sống lại và thoát khỏi cảnh khổ đau, ai oán của trần gian. Nhưng nỗi oan trong lòng nàng vẫn chưa nguôi ngoai nếu không được làm sáng tỏ. Nhân việc Phan Lang lạc vào địa hải, nàng được dịp nhờ Phan chuyển lời đến Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình. Trương Sinh ban đầu vẫn nghi ngờ nhưng khi Phan đưa chiếc trâm của vợ mình ra chàng đã tin và làm theo ước muốn của nàng. Quả nhiên, Vũ Nương hiện về trên dòng sông, nàng ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lạc rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Hình ảnh này thật đẹp, thật xứng đáng với một con người đức hạnh như Vũ Nương. Và đó cũng chính là những gì mà nàng xứng đáng được nhận. Nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa, nỗi oan được giãi bày, được sáng tỏ, nàng đã yên lòng mà ra đi.

Câu chuyện đã kết thúc nhưng giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm đã khiến người đọc xúc động và nhận ra những ý nghĩa, những quy luật bất biến của cuộc đời: ở hiền gặp lành. Và rồi nhất định chế độ phong kiến cũ cũng sẽ tàn lụi, trả lại cuộc sống tự do và công bằng cho người phụ nữ, cho những con người cùng khổ dưới chế độ nam quyền bất công. Đồng thời, khi xây dựng lên nhân vật Vũ Nương hoàn hảo đẹp cả người lẫn nết, nhà văn đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam, qua đó ông muốn gửi đến người phụ nữ thế hệ sau một tấm gương sáng về đạo làm vợ, làm mẹ, làm con dâu hiền thảo, nết na.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo - Mẫu 2

 Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Từ lâu, hình ảnh những người phụ nữ với biết bao nhiêu những phẩm chất tuyệt vời như tần tảo, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, nhất mực thủy chung với chồng, với con đã đi vào thi ca nhạc họa nuôi một nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận. Thế nhưng, trong xã hội phong kiến nam quyền độc đoán với quan niệm "trọng nam khinh nữ" người phụ nữ đã không thể có tiếng được tiếng nói của riêng mình, họ đã phải chịu rất nhiều những đắng cay, bất công và ngang trái. Thấu hiểu được điều đó, Nguyễn Dữ đã thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ bằng việc viết lên tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương".Truyện không chỉ góp một tiếng nói tố cáo một xã hội phi nhân đã chà đạp lên số phận đáng thương của người phụ nữ mà còn qua đó ca ngợi khẳng định những vẻ đẹp về phẩm chất, tâm hồn và niềm khát khao hướng về mái ấm, hạnh phúc gia đình của họ. Vì thế, câu chuyện rất giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có cơ hội để minh oan, giãi bầy, Vũ Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất.

Trước hết, "Chuyện người con gái Nam Xương", mang đậm giá trị hiện thực sâu sắc. Một tác phẩm văn học có giá trị hiện thực khi nó phản ánh một cách chân thực những nét bản chất nhất của đời sống xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Vì thế, từ "Chuyện nguời con gái Nam Xương", Nguyễn Dữ đã phản ánh chân thực một xã hội phong kiến bất công, gây nhiều khổ đau cho người phụ nữ. Điều này được thể hiện qua hình tượng nhân vật Trương Sinh. Có thể nói, Trương Sinh là con đẻ của xã hội Nam quyền phong kiến. Trong truyện, Trương Sinh được giới thiệu là con nhà hào phú "xin trăm lạng vàng cưới vợ" nhưng lại ít học, luôn có tính đa nghi, ghen tuông, bảo thủ, độc đoán thiếu bao dung với cả người vợ của mình... Và đây chính là những bản chất của xã hội phong kiến nam quyền "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", đề cao người đàn ông trong gia đình và xã hội, đã dồn đẩy thân phận người đàn bà vào số phận oan nghiệt. Đồng thời, trong xã hội ấy, chiến tranh loạn lạc phi nghĩa, liên miên xảy ra đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiên, đẩy họ hoàn cảnh "cùng đường tuyệt lộ". Trương Sinh phải đi lính, xa cách mẹ già và người vợ mới cưới. Ở nhà, bà mẹ vì nhớ thương con mà sinh ra bệnh tật rồi mất. Mọi công việc dồn đẩy lên đôi vai nhỏ bé hao gầy của Vũ Nương. Nàng vừa phải một mình nuôi con, vừa chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng cho tới khi mẹ mất. Ba năm bặt vô âm tín, Trương Sinh bỗng trở về trong niềm vui sướng của gia đình. Nhưng vì tin vào lời nói gây thơ của bé Đản "Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít", Trương Sinh đã một mực cho rằng vợ mình thất tiết. Lễ giáo phong kiến bất công đã dung túng cho người đàn ông, cho họ những quyền hành có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình, không cho người phụ nữ cất lên tiếng nói phân trần, giảng giải nên đã vội vàng kết án Vũ Nương là người không đoan chính. Để rồi nàng đành phải trầm mình dưới nước sông Hoàng Giang lạnh lẽo để rửa sạch mối oan tình. Mặc dù, đến cuối truyện, Vũ Nương đã được trả lại danh dự, nhân phẩm và được bất tử hóa đến muôn đời nhưng Vũ Nương đã phải trả một cái giá quá đắt. Hạnh phúc mãi mãi tuột khỏi tầm tay. Nàng và chồng con không còn có thể đoàn tụ được nữa rồi. Từ nay, âm dương cách biệt, chia lìa đôi ngả. Chồng thì mất vợ, con thì mất mẹ. Cái lí mà Vũ Nương đưa ra khi không thể trở về dương gian được nữa là vì muốn cảm tạ ân đức của Linh Phi cứu giúp. Nhưng, đâu chỉ có vậy, Nguyễn Dữ muốn nói với người đọc rằng: chừng nào xã hội phong kiến còn tồn tại những bất công với người phụ nữ thì chừng đó người phụ nữ không có đất mà dung thân, còn phải tiếp tục phải chịu đọa đầy, thậm chí là phải đánh đổi cả mạng sống của mình nữa.

Không dừng lại ở đó, "Chuyện người con gái Nam Xương" còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo khi tác phẩm đó lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, hắc ám đã chà đạp lên số phận của con người bất hạnh, qua đó nhà văn thể hiện niềm cảm thương, sẻ chia sâu sắc trước những tấn bi kịch mà họ phải trải qua, đồng tình, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người nhân vật và chỉ ra cho họ một con đường giải thoát.

Trước hết, thông qua cuộc đời bất hạnh và chịu nhiều oan khuất của Vũ Nương, nhà văn đã lên án, tố cáo một xã hội phi nhân tính, đẩy người phụ nữ vào con đường cùng không lối thoát, cướp đi của họ quyền hạnh phúc, quyền sống và quyền được công bằng. Có thể nói, dưới cái nhìn của Nguyễn Dữ, Trương Sinh là điển hình của các ác, của bạo chúa gia đình. Vì thế, Nguyễn Dữ càng thể hiện niềm xót thương cho người phụ nữ bao nhiêu thì ông lại càng căm giận, lên án bấy nhiêu sự bất công, ngang trái trong xã hội nam quyền. Cho nên, trong lời bình ở cuối truyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại lại công bằng cho người phụ nữ bằng những câu văn rất nhẹ nhàng, thấm thía, nghiêm khắc nhắc nhở : "Than ôi! Những việc từa tựa như nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc. Cho nên quăng thoi đứng dậy, tuy mẹ bậc đại hiền cũng phải phân vân (13), mất búa đổ ngờ tuy con người láng giềng cũng khó chối cãi (14), ý dĩ đầy xe, Quang Võ đổ ngờ lão tướng (15), "trói lại mà giết", Tào Tháo đến phụ ân nhân (16), việc Thị Thiết cũng giống như vậy. Nếu không được trời xét tâm thành, nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn đâu được lại thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch ra hết. Làm người đàn ông, tưởng đừng nên để cho giai nhân oan uổng thế này". Đó là những lời bình chân tình, xuất phát từ trái tim thương người bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ của nhà văn Nguyễn Dữ dành cho nhân vật của mình.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ nhà văn đã ngợi ca những vẻ đẹp vốn có của người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật Vũ Nương. Đó là người phụ nữ bình dân, người phụ nữ của gia đình. Nàng được giới thiệu là người con gái tính đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Khi mới về nhà chồng, trong cuộc sống hôn nhân gia đình, Vũ Nương luôn cư xử đúng khuôn phép, nhường nhịn rất đúng mực, không bao giờ để cho vợ chồng phải thất hòa. Trong buổi đưa tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy nghĩa tình, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về hai chữ "bình yên". Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một nguời mẹ, lại vừa mượn bóng mình ban đêm mà làm người cha. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của của một người con dâu hiếu thảo: chăm sóc, thuốc thang, lễ bái, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Vì thế, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: "Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Khi chồng đi lính trở về, một mực khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần mong mỏi chồng hiểu thấu lòng mình, tìm cách cứu vãn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Cuối cùng "cái thú vui nghi gia nghi thất" đã không còn " bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió", cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá cũng không còn có thể được nữa "đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa". Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, nhân phẩm trong một nỗi đau tuyệt vọng. Tóm lại, Nguyễn Dữ đã phát hiện và khẳng định những đốm sáng nhân văn tốt đẹp bên trong người phụ nữ. Ông thể hiện rõ thái độ bênh vực cho những người phụ nữ xấu số, bất hạnh.

Để thể hiện niềm cảm thông, sự chia sẻ, niềm xót thương với nỗi khổ đau của người phụ nữ đương thời, Nguyễn Dữ đã đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho họ bằng việc sáng tạo ra đoạn truyện dưới thủy cung, vạch ra cho người phụ nữ một con đường giải thoát bi kịch. Sau khi nhảy sông tuần tiết, nàng may mắn được Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải cứu vớt. gặp được Phan Lang dưới thủy cung, nàng nhờ Phan Lang đem về gửi cho Trương Sinh chiếc hoa vàng cài tóc, dặn dò: "nếu còn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần dưới nước, tôi sẽ trở về". Trương Sinh nghe lời, lập đàn tràng ba ngày, ba đêm, Vũ Nương thấp thoáng hiện về trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông. Vũ Nương nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất. Chi tiết này, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách của nhân vật mà còn chứng tỏ Vũ Nương vô tội. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Tạo nên kết thúc truyện như thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.

Bằng nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực và kì ảo, giữa tình tiết đời thường với sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương – người đại diện cho bi kịch bất hạnh của người phụ nữ. Thông qua số phận cuộc đời đầy nước mắt của nàng, nhà văn đã mạnh dạn lên án, tố cáo một xã hội bạo tàn, phi nhân, tồn tại với rất nhiều những bất công ngang trái, dồn đẩy người phụ nữ vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời qua câu chuyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ. Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo - Mẫu 3

Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, ông là người tài giỏi, ra làm quan một thời gian, sau đó lui về ở ẩn. Cũng trong chính thời gian này ông bắt đầu sưu tầm truyện dân gian và sáng tác lại. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những truyện xuất sắc nhất của Nguyễn Dữ thể hiện sự sáng tạo mới mẻ, đặc biệt thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Trước hết tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm phản ánh số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ hết sức bấp bênh, luôn phải phụ thuộc vào người đàn ông, khi ở nhà thì theo ý cha, lấy chồng theo lệnh chồng và kể cả khi chồng mất cũng phải theo con. Số phận họ bị trói buộc, không có cơ hội tìm hạnh phúc riêng cho mình.

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Nàng Vũ Nương trong tác phẩm cũng là một người phụ nữ chịu chung số phận như vậy. Lấy Trương Sinh vốn không phải do nàng chọn lựa, mà bởi cha mẹ quyết định “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, Trương Sinh mến vì dung hạnh nên đã đem trăm lạng vàng cưới về. Cuộc hôn nhân của nàng cũng là cuộc hôn nhân bất bình đẳng, có sự phân biệt giàu nghèo. Ngay từ những dấu hiệu đầu tiên đã dự báo số phận bất hạnh của Vũ Nương. Và quả thật tất cả những gì xảy ra phía sau đó đã chứng minh cho những tiên báo kia. Chồng đi lính về Vũ Nương phải chịu nỗi oan lạ lùng: thất tiết với chồng. Một người đoan trang, chính trực như Vũ Nương bỗng phải nhận nỗi oan như vậy tất yếu nàng sẽ lựa chọn cái chết để minh chứng cho sự trong sạch của bản thân. Cái chết của Vũ Nương là sự phản ứng quyết liệt, mạnh mẽ để bảo toàn danh dự, nhân phẩm của mình. Đồng thời cái chết của nàng cũng phản ánh số phận bi kịch bị dồn đến bước đường cùng của người phụ nữ.

Truyện còn phản ánh sự độc đoán, gia trưởng của người đàn ông trong xã hội phong kiến. Như giới thiệu của Nguyễn Dữ, Trương Sinh là kẻ ít học, tính tình lại hay ghen tuông mù quáng. Lấy được Vũ Nương là người vợ thảo hiền, chung thủy nhưng vẫn luôn đề phòng quá mức. Biểu hiện rõ nhất của tính gia trưởng trong Trương Sinh ấy chính là tin lời một đứa trẻ, ruồng rẫy vợ, đẩy vợ đến cái chết. Trương Sinh không hề suy xét, không cho Vũ Nương giải thích, chỉ một mực mắng chửi và nhất quyết đuổi nàng đi. Nếu Trương Sinh có thể bình tĩnh hơn, nghe lời vợ trình bày, nói rõ nguyên do thì có lẽ gia đình đã không xảy ra thảm cảnh như vậy, sẽ không dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Trương Sinh là kẻ hồ đồ, độc đoán, gia trưởng, là đại diện tiêu biểu cho xã hội phong kiến nam quyền.

Ngoài ra, giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong việc lên án chiến tranh phi nghĩa xảy ra liên miên khiến gia đình phải li tán. Hai vợ chồng lấy nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải lên đường đi lính. Chính cuộc chiến tranh này khiến mẹ phải xa con, chồng phải xa vợ, con không được hưởng tình yêu thương của bố. Chính chiến tranh phi nghĩa là đầu mối đầu tiên đẩy Vũ Nương và gia đình nàng đến bi kịch sau này. Nếu chiến tranh không xảy ra có lẽ gia đình nàng đã được hưởng cuộc sống yên ấm, hạnh phúc.

Đằng sau bức tranh hiện thức đau lòng về số phận bất hạnh của người phụ nữ, chế độ phong kiến nam quyền và chiến tranh phong kiến, tác phẩm còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Trước hết tác phẩm đã khám phá, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp người phụ nữ, mà đại diện ở đây là Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái hiền dịu, nết na, thủy chung nàng hết sức giữ gìn khuôn phép để gia đình không chịu cảnh bất hòa. Ngày tiễn chồng ra trận điều nàng mong muốn không phải những bổng lộc, chức tước mà chỉ mong chồng mang hai chữ bình yên trở về. Ngay cả lúc bị Trương Sinh nghi ngờ, ruồng bỏ Vũ Nương cũng chỉ một mực dùng những lời lẽ tha thiết để hàn gắn tình yêu. Không chỉ vậy, nàng còn là người con dâu hiếu thảo, với mẹ chồng luôn luôn hết lòng chăm sóc, khi mẹ ốm nàng cầu khấn thần phật, dùng những lời lẽ ngọt ngào mong cho mẹ mau chóng khỏi bệnh. Đến khi bà mất nàng lo tang ma chu đáo, chẳng khác gì cha mẹ đẻ. Ngoài ra nàng còn là người giàu lòng vị tha, bị chồng đánh mắng, đuổi đi khiến mình phải tự vẫn nhưng nàng không hề oán trách. Dưới thủy cung vẫn một lòng hướng về dương gian, hướng về hạnh phúc đời thường. Khoảnh khắc gặp lại chồng, Vũ Nương không trách móc mà còn hết lời cảm tạ Trương Sinh. Lời nói ấy cho thấy Vũ Nương hoàn toàn tha thứ cho chồng. Trương Sinh đã được giải thoát khỏi nỗi ân hận, day dứt vì sự hàm hồ, hẹp hòi, tàn nhẫn của mình. Vũ Nương chính là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam.

Qua những lời lẽ miêu tả, giọng điệu tha thiết ta thấy được sự cảm thương cho số phận bất hạnh của Vũ Nương. Niềm cảm thương đó được thể hiện rõ nhất ở chi tiết li kì sáng tạo cuối tác phẩm. Vũ Nương được Linh Phi cứu, sống cuộc đời bất tử. Chi tiết này trước hết hoàn chỉnh, đậm tô nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình nghĩa, trọng nhân phẩm, bao dung, vị tha. Đồng thời đây cũng là chi tiết giúp khôi phục lại danh dự của nàng.

Ngoài ra tác phẩm cũng là tiếng nói lên án, tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy người phụ nữ đến bước đường cùng. Tước đoạt hạnh phúc đời thường, bình dị của họ. Tước đoạt quyền được sống của con người. Đó là tiếng nói lên án mạnh mẽ nhất, đanh thép nhất thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Dữ đối với con người mà ở đây là người phụ nữ.

Chỉ bằng một câu chuyện ngắn ngủi, những Nguyễn Dữ đã gửi gắm, truyền tải biết bao thông điệp ý nghĩa đến với bạn đọc. Là tiếng nói cảm thương cho số phận người phụ nữ; là sự trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất của họ. Không dừng lại ở đó tác phẩm còn lên án xã hội phong kiến nam quyền, chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc, thể hiện tấm lòng nhân văn cao cả của tác giả.

download.com.vn