Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích vẻ đẹp người lao động trong bài Đoàn thuyền đánh cá - Những bài văn hay lớp 9

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 319,6 KB
Lượt tải: 5
Nhà phát hành: Sưu tầm


Chia sẻ bởi Taifull.net: Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích vẻ đẹp người lao động trong bài Đoàn thuyền đánh cá: Mời thầy cô và các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu lớp 9: Phân tích vẻ đẹp người lao động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, chúng tôi hi vọng đây sẽ tài liệu giúp cho các bạn có thể bổ sung thêm kiến thức môn Ngữ Văn lớp 9 của mình cũng như có thể thêm vào hành trang cho kỳ thi Tuyển sinh vào lớp 10 sắp tới.

Giới thiệu

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 9: Phân tích vẻ đẹp của người lao động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận không chỉ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên của vùng biển mà còn miêu tả vẻ đẹp của người lao động lằng chài vô cùng chất phác. Dưới đây là dàn ý chi tiết kèm theo là 4 bài văn mẫu lớp 9: Phân tích vẻ đẹp người lao đọng trong bài Đoàn thuyền đánh cá, mời các bạn tham khảo và tải tại đây.

Phân tích vẻ đẹp của người lao động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài:

- Nêu những nét chính về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

- Bài thơ đã khắc họa được vẻ đẹp và sức mạnh của người lao động trước thiên nhiên - vũ trụ kỳ vĩ.

II. Thân bài:

- Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ: Đẹp, rộng lớn, lộng lẫy

- Cảm hứng vũ trụ đã mang đến cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên hoành tráng

- Cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh bình minh được đặt ở vị trí mở đầu, kết thúc bài thơ vẽ ra không gian rộng lớn mà thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ.

- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi: Không phải là con thuyền mà là đoàn thuyền tấp nập.

- Con thuyền không nhỏ bé mà kì vĩ, hòa nhập với thiên nhiên, vũ trụ.

- Vẻ đẹp rực rỡ của các loại cá, sự giàu có của biển cả. Trí tưởng tượng của nhà thơ đã chắp cánh cho hiện thực, làm giàu thêm, đẹp thêm vẻ đẹp của biển khơi.

- Người lao động giữa thiên nhiên cao đẹp

- Con người không nhỏ bé trước thiên nhiên mà ngược lại, đầy sức mạnh và hòa hợp với thiên nhiên.

- Con người ra khơi với niềm vui trong câu hát.

- Con người ra khơi với ước mơ trong công việc.

- Con người cảm nhận được vẻ đẹp của biển, biết ơn biển

- Người lao động vất vả nhưng tìm thấy niềm vui, phấn khởi trước thắng lợi.

III. Kết bài:

- Hình ảnh người lao động được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn cho thấy niềm vui phơi phới của họ trong cuộc sống mới.

- Thiên nhiên và con người phóng khoáng, lớn lao. Tình yêu cuộc sống mới của nhà thơ được gửi gắm trong những hình ảnh thơ lãng mạn đó.

Bài văn mẫu số 1

Nói về Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận người ta không chỉ ấn tượng ở thiên nhiên giàu có, trù phú mà hơn hết là ở những con người lao động cần cù, chăm chỉ. Họ là hình ảnh tiêu biểu cho con người mới, cuộc sống mới đang trên hành trình lao động hăng say để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Bằng bút pháp lãng mạn Huy Cận đã tái hiện một cách chân thực và đẹp đẽ nhất những người ngư dân trong lần ra khơi đánh cá.

Bài thơ ra đời sau một chuyến đi thực tế của Huy Cận ở Quảng Ninh. Chính khung cảnh lao động hăng say của những người dân nơi đây đã khơi nguồn cảm xúc trong ông sáng tác nên bài thơ này. Hình ảnh những ngư dân hiện lên với những phẩm chất đáng quý đẹp đẽ, họ không chỉ có thân hình vạm vỡ, khỏe mạnh mà còn có lòng yêu lao động, tinh thần làm việc hăng say tha thiết.

Trước hết họ là những con người yêu và hăng say lao động. Khi màn đêm vừa buông xuống, sóng đã cài then đêm sập cửa cũng chính là lúc những người ngư dân bắt đầu công việc của mình:

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi"

Nếu như vũ trụ đã nghỉ ngơi thì cũng là lúc đoàn thuyền lại ra khơi. Cách dùng từ của ông thật tinh tế, đối ứng với câu trên thiên nhiên nghỉ ngơi, câu dưới lại là bắt đầu quá trình làm việc của con người. Chữ lại này còn cho người đọc thêm một thông tin khác, ấy là quá trình làm việc này diễn ra đều đặn, tuần hoàn, không ngưng nghỉ. Kết hợp với câu hát ở câu thơ sau cho thấy niềm hăng say, niềm vui và hứng khởi lao động của những con người nơi đây.

Họ còn là những con người chủ động trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Hành trình đánh cá trên biển chắc hẳn sẽ gặp không ít nhưng khó khăn, vất vả, nhưng những ngư dân vẫn hiên ngang, chủ động trong quá trình làm việc của mình: Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng/ Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Thuyền ta hay cũng chính những người dân đánh cá lái, lướt giữa không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn. Họ chủ động tiến tới, chủ động chinh phục thiên nhiên. Hệ thống hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng cho thấy con người mang trong mình sinh lực lớn lao, mạnh mẽ để chinh phục biển cả, thu về những mẻ cá bội thu. Sự chủ động đó còn được khắc họa rõ hơn trong hai câu thơ sau, những ngư dân ra những vùng biển xa, vùng biển sâu để dò tìm những mẻ cá lớn và giăng lưới để bắt chúng. Tất cả những cử chỉ, hành động đó cho thấy tầm vóc lớn lao và tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ vũ trụ của con người.

Không chỉ vậy, họ còn là những ngư dân tài ba khỏe khoắn. Với tài năng của mình, cộng với kinh nghiệm dày dặn nhiều năm bôn ba trên biển họ thu về những mẻ cá lớn, động tác: Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng/ Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng, không chỉ cho thấy khí thế lao động gấp gáp, khẩn trương, mà còn cho thấy sức khỏe phi thường của họ. Từ xoăn tay vừa cho thấy sức vóc vạm vỡ của con người vừa cho thấy sức nặng của mẻ cá lớn. Kết hợp với hình ảnh thơ Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông càng làm rõ hơn nữa về thành quả lao động. Câu thơ đó khiến ta nhớ về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bài Quê hương của Tế Hanh:

Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe.
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Bà mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho con người những gì đẹp đẽ, quý giá nhất, bởi vậy đáp lại tấm lòng ấy, người dân không quên công ơn, thể hiện niềm biết ơn sâu sắc qua câu thơ: Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Biển cả là nguồn sữa mẹ, là nguồn tài nguyên khổng lồ nuôi sống con người. Tác giả ví biển như lòng mẹ còn cho thấy biển gần gũi, ấm áp yêu thương con người như những người mẹ thương những đứa con của mình. Đằng sau câu thơ thể hiện niềm biết ơn sâu sắc của người dân chài lưới với bà mẹ biển cả ân tình.

Những câu hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ, cho thấy những người dân lao động là mang tâm hồn vui tươi, yêu đời, lạc quan, họ luôn mang trong mình niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Nhưng mỗi câu hát lại mang một ý nghĩa riêng: Lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba tiếng hát thể hiện niềm vui phơi phới, niềm say mê, hứng khởi của những người lao động. Lần thứ tư là khúc khải hoàn ca, khúc ca chiến thắng, sau một đêm đánh bắt bội thu. Khúc ca lặp đi lặp lại khiến cả tác phẩm trở thành một bài ca lao động tươi vui, lạc quan, hào hứng trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới.

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca hào hùng, tràn ngập niềm vui về cuộc sống và lao động của những ngư dân trên biển. Tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người nơi đây, vẻ đẹp của sự cần cù, chăm chỉ, gan góc, không quản ngày đêm làm giàu cho quê thương đất nước. Bằng bút pháp lãng mạn, giọng điệu thơ vui tươi đã đậm tô thêm vẻ đẹp phẩm chất của con người nơi đây.

Bài văn mẫu số 2

Nếu trước cách mạng tháng 8, Huy Cận mang một hồn thơ của cái tôi ảo não sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thanh) thì sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng - chung, biểu hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc đời mới. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được sáng tác vào năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã được giải phóng và đang từng bước xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới trong không khí hào hứng, phấn khởi. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, trù phú, thơ mộng thì bài thơ còn khắc họa thành công hình ảnh người ngư dân lao động đánh bắt cá chứa chan sức sống, khỏe khoắn, tươi vui tràn đầy tinh thần hăng say trong công việc.

Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng hình ảnh bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung của toàn bài: khỏe khoắn, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ.

Trước hết mở đầu bài thơ là những con người hăng say, miệt mài lao động không quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Cứ mỗi khi ánh mặt trời ở phía đằng Đông ngả về phía Tây, cánh cửa màn đêm của vũ trụ như khép lại sau một chu trình hoạt động thì những người ngư dân lại bắt đầu dong thuyền ra khơi đánh cá. Từng đoàn, từng đoàn thuyền lần lượt nhổ neo tiến về biển lớn đại dương. Phụ từ “lại” như vừa diễn tả sự đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của đoàn thuyền; đồng thời cũng gợi lên tư thế chủ động, hết sức khẩn trương, mau lẹ, tích cực trong công việc mà hằng ngày cứ diễn ra lặp đi lặp lại của người dân chài lưới: "lại ra khơi". Tuy nhiên, khí thế ra khơi của họ vẫn hăm hở, náo nức, rộn rã tiếng nói, tiếng hát vui cười. “Câu hát căng buồm” là một ẩn dụ đẹp, biểu trưng cho tâm hồn lạc quan, niềm vui và sức mạnh của con người lao động. Và họ hiện lên như những vị chủ nhân mới của biển cả đại dương. Chính tiếng hát đã hòa cùng với gió trời thổi phồng cánh buồm, đẩy con thuyền tiến ra ra khơi xa. Câu thơ gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi, và câu hát, tạo nên hình ảnh vùa thực, vừa lãng mạn, khỏe và lạ. Tâm tư của người đánh cá gửi gắm trong tiếng hát: phấn khởi, say mê với công việc và niềm hi vọng tin tưởng sẽ bắt được nhiều cá tôm, đem về làm giàu cho tổ quốc.

Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Với hình thức liệt kê hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người đọc thấy sự giàu có của biển Đông. Biển Đông có rất nhiều cá và đang chờ mọi người tới khai thác. Cá được nhà thơ so sánh “như đoàn thoi”. Đoàn thoi hoạt động rất nhanh và nhiều trên bến phà. Và cá ở biển Đông cũng nhiều và bơi rất nhanh như thoi đưa vậy. Câu thơ cất cao lên tiếng hát, tràn ngập niềm say mê, phấn khởi trước sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng cho người dân vùng chài. Vì thế, hai câu thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Họ hi vọng, những đàn cá "đêm ngày dệt biển" ấy sẽ vào “dệt lưới” của đoàn thuyền. Vần "ơi" kết hợp với dấu chấm cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động, thật gần gũi, thân thiết với con người.

Trong bài thơ, có bảy khổ thơ thì tới có bốn khổ thơ xuất hiện từ "hát" (4 lần) nhưng lại có sắc thái ý nghĩa khác nhau: khi bắt đầu ra khơi thì họ cất cao tiếng hát để đẩy thuyền ra khơi "Câu hát căng buồm cùng gió khơi"; khi đưa được chiếc thuyền tiến ra giữa biển, chứng kiến sự giàu đẹp của biển Đông thì họ lại hát lên bài ngợi ca biển cả "Hát rằng cá bạc biển Đông lặng/ Cá thu biển Đông như đoàn thoi"; khi tung chài bắt cá thì họ lại cát lên tiếng hát gọi cá vào lưới "Ta hát bài ca gọi cá vào"; và đến khi trở về, tiếng hát của họ lại hòa cùng với gió trời, thổi căng cánh buồm đẩy thuyền về đất liền: "Câu hát căng buồm với gió khơi". Như vậy, xuyên suốt bài thơ, tiếng hát của người lao động cứ réo rắc, ngân nga, vang vọng giữa biển trời thật vui tươi, sống động. Điều đó không chỉ cho thấy tinh thần lao động đầy hăng say, hào hứng mà còn mở ra một tâm hồn đầy lạc quan, đầy tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống mới của người ngư dân miền biển.

Với tài năng quan sát miêu tả tinh tế, hòa cùng với cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt, Huy Cận đã phóng bút tái hiện vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phấn khởi của con người lao động thật hào hùng, mạnh mẽ và đầy chất thơ, chất họa:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Dưới sự hình dung và tưởng tượng bay bổng, hình ảnh con thuyền đánh cá hiện lên thật đẹp, thật độc đáo, mang tầm vóc vũ trụ: người lái thì là gió trời; cánh buồm thì là vầng trăng và con thuyền đang bay giữa không trung (lướt giữa mây cao), như có thể chạm vào mây trời. Nó khác hẳn với con thuyền cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không cùng trời đất mênh mang trong bài thơ "Tràng Giang" trước cách mạng:

Bài văn mẫu số 3

Tác giả từng gọi bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá” là một "khúc tráng ca”. Đúng vậy, đây là khúc ca đồng vọng khi nhà thơ cùng hóa thân trong niềm vui của người ngư dân lao động với tinh thần làm chủ, trong sự hòa hợp với thiên nhiên kỳ thú, mỹ lệ. Như Xuân Diệu đã ví von bài thơ là "Món quà đặc biệt vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả cho vào túi thơ Huy Cận". Cảm hứng của bài thơ được cất cánh từ một đêm lao động trên biển. Tác giả đã kết hợp hiện thực và trí tưởng tượng bay bổng, sáng tạo nhiều hình ảnh độc đáo, mới mẻ, giàu sức gợi tả để cuốn hút người đọc vào không khí lao động của người ngư dân trong buổi hoàng hôn tráng lệ xuất bến ra khơi: Vũ trụ từng thời khắc đang vận động, mặt trời "xuống biển như hòn lửa" ...

Những con sóng gợn nét ngang luân chuyển qua lại như then cửa ... cảm tưởng như mặt trời lặn đến đâu, cánh cửa đêm kéo đến đó: "Sóng đã cài then, đêm sập cửa". Một phát hiện mới của Huy Cận là: Người ngư dân ra biển với tâm trạng yên ổn như trở về ngôi nhà ấm cúng của mình. Chính hình ảnh "đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi", trong tiếng hát vừa diễn tả niềm náo nức và khái quát về cuộc sống lao động cần cù của họ. Mạch cảm hứng của nhà thơ giàu chất lãng mạn trữ tình như hòa chung nhịp điệu lao động trên biển đêm, nên đã đặc tả chân dung người ngư dân trên nền của thiên nhiên kỳ thú. Cảnh khoáng đạt của biển trời như quyện với vẻ đẹp của con người lao động dệt nên một bức tranh cẩm tú, rạo rực sức sống, tôn vinh vẻ rỡ ràng của ông chủ biển khơi. Khác với những thi phẩm viết cùng đề tài, ở đây không miêu tả chi tiết thực của công việc đánh bắt cá: Thả lưới, kéo lưới chuyển cá về.... Mà tác giả phát hiện vẻ đẹp mới của người dân chài về một trong triệu triệu buổi thường nhật đánh cá đêm khi biển trời giải phóng…

Ngay từ đầu bài thơ đã hé lộ phút giây náo nức xuất bến, tác giả đã đặt ba sự vật rất khác nhau: "Câu hát, cánh buồm, gió khơi" vào trường liên tưởng mới mẻ để tạo nên hình ảnh đẹp, lạ nhằm biểu đạt sự hăm hở ra khơi của đoàn thuyền. Cũng với cách thức như thế, ông đã chạm nổi vẻ đẹp trong lao động với tư thế làm chủ, với trạng huống tinh thần say mê, khẩn trương làm việc. Bằng những hình ảnh được sáng tạo độc đáo, giàu trí tưởng tượng: “Con thuyền gió làm lái, trăng làm buồm, lướt nhẹ mây cao, biển bằng, dò bụng biển, lưới vây giăng”....đã giúp thi sĩ biến một con thuyền đánh cá hết sức bình thường hàng ngày bỗng chốc thành con thuyền mộng đi trong tiên cảnh bồng lai. Cuộc đánh bắt cá thành một cuộc đánh trận bài bản có trinh sát tình hình "dò bụng biển", có lên phương án tác chiến chi tiết “dàn đan thế thế trận lưới vây giăng". Lao động trên biển dù thời đại nào thì cũng rất đặc thù (ban đêm) và rất cực nhọc. Nhưng niềm phấn chấn của con người làm chủ cuộc đời, thụ hưởng trọn vẹn thành quả lao động nên người ngư dân đã lao động với một tâm thế hoàn toàn khác. Khám phá ra nét mới mẻ trong đời sống tinh thần của họ nên tác giả để cho nhân vật trữ tình trong tác phẩm xưng “ta”. Đó là một cách cùng giao hòa với niềm kiêu hãnh, tự hào của những con người từng "ta" bé nhỏ hèn mọn trước biển cả hung dữ. Thiên nhiên vẫn đẹp, vẫn tiềm ẩn sóng gió bất thường, nhưng con người đã khác không cầu khẩn thần biển "hô phong hoán vũ" mà tự mình "hát bài ca gọi cá vào" … Dường như đàn cá hiểu được tiếng gọi trìu mến của con người, còn con người thân thiện và chế ngự được muôn loài:

“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao"

Hàng loạt hình ảnh trong bài là sự thăng hoa của trí tưởng tượng phong phú của thi nhân. Tiếng hát và nhịp gõ thuyền đuổi cá vào lưới đã làm ánh trăng soi trên biển rung động, có cảm tưởng như trăng trên cao giữ nhịp cho tiếng gõ của đoàn thuyền...

"Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lấp lánh đuốc đen hồng"

Tác giả không nhằm liệt kê các loài cá mà để cùng ngư dân "khoe" nguồn sống bất tận, kỳ diệu của biển Đông, làm nên sinh lực của vũ trụ:

"Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long"

Một cách chuyển đổi rất hài hòa, nhà thơ biến loài cá thành một đối tác trữ tình để bỏ ngỏ niềm vui lớn khi con người là chủ nhân của kho tài nguyên thiên nhiên phong phú, biết hòa hợp với sức sống phồn thực của vũ trụ. Toàn bài chỉ có một chi tiết tả thực cảnh kéo lưới. Đây là công việc nặng nhọc nhất của nghề đánh bắt cá. Nhưng cả chi tiết này tác giả cũng không sử dụng bút pháp tả chân mà lại dùng lối khoa trương nên sự miêu tả ấy vẫn nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn.

Con thuyền như được thi vị hóa, lướt đi giữa mây cao và biển bằng. Đây là một hình ảnh nối liền hình ảnh người lao động trong đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận từ mặt biển đến chân mây. Trong khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt, tác giả cũng như thả hồn vào đó, thỏa sức sáng tạo và để trí tưởng tượng bay xa. Tác giả coi gió là người lái thuyền, ánh trăng là cánh buồm. Đây là một hình ảnh thơ lãng mạn, thơ mộng. Với hàng loạt những động từ mạnh: “đâu”, “dò”, “đan”, “vây”, “giăng”. Tác giả như muốn nhấn mạnh lại lần nữa tư thế làm chủ và niềm say mê, nhiệt tình của người lao động.

Đặt trong một khung cảnh thiên nhiên có gió, có trăng, ta thấy đây là một buổi ra khơi đẹp, “thuận buồm xuôi gió”. Trong công việc lao động mệt nhọc của mình, những người lao động vẫn cất cao những lời ca tiếng hát. Tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển, mời gọi cá vào. Thể hiện khát vọng đánh bắt được nhiều cá, xây dựng quê hương, đất nước tươi đẹp. Cùng với những tiếng hát lạc quan, yêu đời ấy là âm thanh sóng vỗ vào mạn thuyền, tạo ra những tiếng nhạc trầm bổng, vang vọng trong không gian. Đề cao vai trò của biển, tác giả ví biển như lòng mẹ, luôn nâng bước những đứa con tìm đến nguồn sống.

Mọi công việc trở nên vội vàng hơn khi trời rạng sáng. Mẻ lưới cuối cùng được kéo lên cũng là lúc mặt trời sắp mọc. Những người dân chài phải kéo “xoăn tay” những mẻ lưới nặng. Đây là hành động mạnh mẽ, dứt khoát, kéo bằng cả sức lực. Khi cá đã nằm gọn trong lưới, những người dân chài xếp cá lên thuyền chuẩn bị ra về.

Bài văn mẫu số 4

Hình ảnh người nông dân lao động từ lâu đã trở thành chủ đề, đề tài để nhiều nhà thơ, nhà văn khai thác, làm nổi bật. Một trong những nhà thơ đi sâu và đạt được nhiều thành công rực rỡ trong mảng đề tài này là Huy Cận với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là bức tranh đẹp, ấn tượng của khung cảnh thiên nhiên. Mà nổi bật trong đó là hình cảnh người lao động với niềm tin, sự lạc quan, yêu nghề, yêu lao động.

Tác giả Huy Cận đã miêu tả cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá trong một khung cảnh hết sức đặc biệt. Đó là cảnh hoàng hôn. Với nghệ thuật so sánh và nhân hóa đặc sắc, tác giả ví mặt trời như hòn lửa đang từ từ chìm sâu xuống lòng đại dương bao la, mênh mông. Quả là một hình ảnh so sánh táo bạo của thi nhân. Bầu trời lúc này chuyển dần từ đỏ rực sang tím sẫm và cuối cùng là một màu đen. Bằng trí liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, ấn tượng, vũ trụ hiện lên trong cái nhìn của tác giả thật gần gũi, ấn tượng. Nhà thơ tưởng tượng vũ trụ là ngôi nhà, màn đêm là cánh cửa và gợn sóng là những chiếc then cài. Khi màn đêm buông xuống, mái nhà chung của nhân loại đóng cửa và cài chắc chắn nhũng chiếc then sóng. Chính vào lúc đó, khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu một ngày lao động mới trên biển. Ngày lao động của người dân chài lúc này được tính từ khi mặt trời lặn đến khi trời hửng rạng. Con người hiện lên trong bức tranh của tác giả với một tư thế làm chủ thiên nhiên qua nghệ thuật đối lập. Từ “lại” được dung thật đắt giá. Những người dân chài đi ra biển không phải lần đầu mà như một thói quen, một chu kì tuần hoàn. Mặc dù vậy nhưng mỗi lần ra khơi họ lại mang một khí thế hào hứng, niềm lạc quan, niềm tin vào cuộc sống. Cả đoàn thuyền hung dũng tiến ra biển lớn. Dù khó khăn, dù vất vả, những câu hát vẫn cất lên tiếp sức cho người lao động, góp với sức gió đẩy những cánh buồm ra khơi. Họ ra khơi với tinh thần trách nhiệm cao, với niềm tin chiến thắng thiên nhiên. Những người lao động được đặt vào một khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn, không còn lẻ loi, đơn độc trên con đường xây dựng quê hương, đất nước. Họ đã biến cái dữ dội của thiên nhiên thành phương tiện, nguồn sống của mình. Con thuyền như được thi vị hóa, lướt đi giữa mây cao và biển bằng. Đây là một hình ảnh nối liền từ mặt biển đến chân mây. Trong khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt, tác giả cũng như thả hồn vào đó, thỏa sức sáng tạo và để trí tưởng tượng bay xa. Tác giả coi gió là người lái thuyền, ánh trăng là cánh buồm. Đây là một hình ảnh thơ lãng mạn, thơ mộng. Với hàng lợt những động từ mạnh: đâu, dò,đan, vây, giăng. Tác giả như muốn nhấn mạnh lại lần nữa tư thế làm chủ và niềm say mê, nhiệt tình của người lao động. Đặt trong một khung cảnh thiên nhiên có gió, có trăng, ta thấy đây là một buổi ra khơi đẹp, “thuận buồm xuôi gió”. Trong công việc lao động mệt nhọc của mình, những người lao động vẫn cất cao những lời ca tiếng hát. Tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển, mời gọi cá vào. Thể hiện khát vọng đánh bắt được nhiều cá, xây dựng quê hương, đất nước tươi đẹp. Cùng với những tiếng hát lạc quan, yêu đời ấy là âm thanh sóng vỗ vào mạn thuyền, tạo ra những tiếng nhạc trầm bổng, vang vọng trong không gian. Đề cao vai trò của biển, tác giả ví biển như lòng mẹ, luôn nâng bước những đứa con tìm đến nguồn sống.

Mọi công việc trở nên vội vàng hơn khi trời rạng sáng. Mẻ lưới cuối cùng được kéo lên cũng là lúc mặt trời sắp mọc. Những người dân chài phải kéo “xoăn tay” những mẻ lưới nặng. Đây là hành động mạnh mẽ, dứt khoát, kéo bằng cả sức lực. Khi cá đã nằm gọn trong lưới, những người dân chài xếp cá lên thuyền chuẩn bị ra về.

Với nghệ thuật nhân hóa tác giả miêu tả mặt trời đang dần nhô lên khỏi mặt biển. Đoàn thuyền phải chạy đua với thời gian, với mặt trời trên chuyến hành trình trở lại đất liền cho kịp chợ sớm, bắt đầu một ngày mới với nhiều hi vọng mới. Cá trở thành nguồn sống, nuôi sống những người lao động. Lúc đi, con người mang một khí thế hào hứng, niềm tin vào kết quả lao động. Còn khi về, con người lại mang một cảm giác sung sướng, thỏa mãn về thành quả lao động mình đạt được, Hình “ảnh mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” như một hình ảnh ẩn dụ độc đáo, ngụ ý nói lên sự huy hoàng của thành quả lao động do chính bàn tay con người tạo nên. Với nghệ thuật đầu cuối tương ứng, chỉ thay từ “cùng” bằng từ “với”, tác giả như muốn nhấn mạnh rằng lúc đi, khí thế của người lao động thế nào thì khi về vẫn vậy, vẫn hào hứng, yêu đời, yêu lao động. Họ lao động với niềm say mê, lao động để xây dựng cuộc sống, quê hương, đất nước tươi đẹp.

Với sự kết hợp thành công của nhiều nghệ thuật độc đáo và sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cùng những hình ảnh thơ lãng mạn, tác giả đã khắc họa thành công cảnh ra khơi đánh cá của đoàn thuyền đẹp thơ mộng. Qua đó làm nổi bật niềm say mê, nhiệt tình lao động, tình yêu quê hương của những người dân chài.

 ..............

Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!

download.com.vn