Những mở bài hay nhất về các tác phẩm Văn học ôn thi THPT Quốc gia 2019 - Tài liệu ôn thi THPT quốc gia 2019 môn Văn

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 285 KB
Lượt tải: 23,938
Nhà phát hành: Sưu tầm


[Share] Trong văn nghị luận văn học hay nghị luận xã hội, mở bài luôn đóng vai trò quan trọng, chiếm khoảng 30% trong cơ số điểm của một bài viết. Mở bài là phần tạo hứng thú, thu hút và ấn tượng của người viết đối với người đọc.

Nội dung chi tiết:

Để tạo được ấn tượng của một bài văn phần mở bài đóng vai trò rất quan trọng, nó chính điểm nhấn cho cả bài văn. Chính vì vậy các bạn học sinh cần cân nhắc kỹ và đưa được nội dung cốt lõi của đề bài vào phần mở bài. Về cơ bản mở bài của 1 bài văn không cần quá dài nhưng phải đảm bảo truyền đạt được nội dung mà chúng ta sẽ nói đến trong toàn bài văn tạo nên sức hút và tạo cảm hứng cho người đọc.

Trong các bài thi môn ngữ văn của kỳ thi THPT Quốc Gia phần làm văn sẽ chiếm đến 1 nửa số điểm, chính vì vậy hãy đảm bảo bài văn của bạn đủ cảm xúc, đúng nội dung để thầy cô giáo đánh giá cao. Bài làm văn có thể dài đến 4 hay 5 trang giấy nhưng phần mở bài ngắn chỉ vài dòng sẽ quyết định đến 30% điểm của bài văn nên hãy lưu ý đến nội dung của phần mở bài. Dưới đây là 1 số mở bài của các tác phẩm văn học lớp 11 và lớp 12 để các em tham khảo, hi vọng chúng sẽ giúp bạn có được những ý tưởng hay cho phần mở bài của riêng mình khi làm các bài nghị luận văn học.

Một số mở bài về Tây Tiến - Quang Dũng

Mở bài 1:

Phong trào thơ mới 1932 – 1945 đánh dấu sự thành công vượt bậc của văn học Việt Nam với sự đóng góp bởi các tên tuổi nổi tiếng với phong cách thơ lãng mạn, hào sảng nổi trội trong làng thơ như: Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Quang Dũng... Và hẳn nhiên, không ai có thể quên Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, bởi riêng mình Quang Dũng dường như đã tự tách biệt mình ra với hướng đi của các nhà thơ lãng mạn khác.

Mở bài 2:

Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến: "Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến". Phải chăng cái mới, cái lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh hùng của dân tộc đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.

Mở bài 3:

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và "Tây Tiến" là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.

Mở bài 4:

Cho đến nay Tây tiến vẫn là một đài thơ (Thi Sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài thơ Tây tiến... chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ, ý thơ, hình tượng thơ Giầu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây tiến. Với Tây tiến, Quang Dũng dưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự vọng tưởng diệu huyền. Với Tây tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh Bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.

Mở bài 5:

Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc: "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn". Trong cuộc đời mỗi người từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc đã được ghi lại chân thực trong bài thơ Tây Tiến.

Một số mở bài về Việt Bắc - Tố Hữu

Mở bài 1:

Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng VN trong đó bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10-1954 sau thắng lợi chiến dịch ĐBP lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì thế bài thơ vừa có ý nghĩa lịch sử lại vừa có ý nghĩa văn học sâu sắc. Có ý kiến cho rằng: "Bài thơ VB của TH là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến".

Mở bài 2:

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân – tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Mở bài 3:

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai của dân tộc ta thắng lợi được nhân loại tiến bộ vinh danh là "cuộc chiến tranh thần thánh". Tính thần thánh, huyền thoại ấy được biểu hiện ở đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng suốt , ở lòng yêu nước, lý tưởng độc lập – tự do, ở tinh thần kiên cường, dũng cảm của quân dân ta. Với một lực lượng nhỏ bé, vũ khí thô sơ, chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, quân ta phải đối diện trước bọn thực dân Pháp binh hùng, tướng mạnh, vũ khí hiện đại,...Vậy mà cuối cùng dân tộc ta đã chiến thắng. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, sức mạnh của tình dân với Cách mạng, tình người mặn nồng, tha thiết, yêu thương, gắn bó với nhau.Vẻ đẹp của khối đoàn kết toàn dân, của tình người ấy đã được nhà văn Tố Hữu ngợi ca bằng những từ ngữ, những câu thơ, những hình tượng thẩm mĩ vô cùng ấn tượng trong đoạn trích phần một của trường ca Việt Bắc. Ngày nay, cuộc chiến đã đi qua, nhưng tình người thì còn lại mãi mãi...

Mở bài 4:

Tố Hữu là nhà thơ lớn, con chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, các chặng đường thơ của ông đều gắn bó với các chặng đường cách mạng dân tộc. Các tác phẩm của Tố Hữu luôn in đậm khuynh hướng trữ tình chính trị và
đậm đà tính dân tộc. Và "Việt Bắc" là một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Tố Hữu, đồng thời cũng là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Nó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, anh hùng của dân tộc và lời tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách mạng. Đoạn trích "..." là lời của cán bộ kháng chiến về xuôi với người dân Việt Bắc, như sự đáp lời cho câu hỏi đau đáu "Mình về mình có nhớ ta?". Nếu như đồng bào Việt Bắc nhớ cán bộ kháng chiến thì cán bộ kháng chiến cũng dành trọn tình cảm yêu thương cho những con người nghĩa tình ấy. Một tình cảm tri ân đồng vọng.

Một số mở bài về Đất nước - Nguyễn Đình Thi

Mở bài 1:

Đất Nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 – 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp.

Mở bài 2:

Trong suy nghĩ của mỗi người, yêu nước thường là một tình cảm lớn lao, xa vời, khó cảm nhận. Nhưng qua bài Đất nước, bằng những câu thơ vừa dồn nén cảm xúc vừa trĩu nặng suy tư, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thầm nhắc bạn đọc – nhất là lớp người trẻ tuổi "Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình/Phải biết gắn bó và san sẻ..." Đất Nước gắn bó, biểu hiện ngay bên cạnh chúng ta. Phải chăng lòng yêu nước bắt đầu từ những điều giản dị, gần gũi nhất, như yêu cha mẹ, gia đình, mái nhà ta ở, hạt gạo ta ăn, từ mỗi giọt máu, đốt xương của chính mình? Từ tình yêu nhỏ, tuổi trẻ hãy mở rộng tấm lòng để có tình yêu lớn. Từ tình yêu, chúng ta cần thức tỉnh sứ mệnh của mình trước lịch sử. Ngày xưa, sứ mệnh ấy là chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, còn ngày nay, sứ mệnh ấy là gì?

Mở bài 3:

Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu song gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Một số mở bài về Sóng - Xuân Quỳnh

Mở bài 1:

Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loai. Mỗi một nhà thơ tìm đến một cách biểu hiện khác nhau: một tình yêu mang yếu tố triết lý trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh tôi bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường.

Mở bài 2:

Sẽ thật là thãi thừa khi nói về vẻ đẹp, sự huyền bí, sự hấp dẫn, niềm sung sướng và cả những đớn đau do Tình Yêu đem lại. Thế gian đã tốt bao nhiêu giấy, mực, thậm chí cả... máu để nói, viết, ca tụng cho Tình Yêu. Trong cuộc đời trần tục đầy biến ảo này, mọi thứ đều thay đổi, nhưng có một thứ là bất biến, vĩnh hằng...Đó chính là sự thuần khiết, lung linh của Tình yêu. Có lẽ tự thủa hồng hoang, tình yêu của loài người cũng đã vậy và cho đến nay nó vẫn vậy về bản chất, tình yêu đó chỉ thay đổi về hình thức thể hiện nhưng bảo tồn nguyên vẹn chất liệu nội dung. Thật là đẹp và lãng mạng biết bao khi tác giả Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để nói lên những trăn trở, khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường.

Mở bài 3:

Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Muôn đời tình yêu vẫn mới lạ vẫn hấp dẫn với mọi người. Nhiều nhà thơ đã viết về tình yêu đã nói về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt in đậm dấu ấn tâm hồn tư tưởng và phong cách của mình. Xuân Quỳnh với bài thơ "sóng"-một bài thơ tình duy nhất trong tập thơ.

"Hoa dọc chiến hào" đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên. Tình yêu ở đây được đề cập đến một cách sâu sắc đậm đà. Chị đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc tâm trạng những sắc thái tình cảm vừa phong phú phức tạp vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương.

Mở bài 4:

"Sóng" được in trong tập "Hoa dọc chiến hào", xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Một số mở bài về Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài

Mở bài 1:

Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lý Pá Tra và vợ chồng A Phủ.

Mở bài 2:

Nói về việc sáng tác "Truyện Tây Bắc", Tô Hoài cho biết, "ngoài tài liệu và trên cả sáng tạo", ông đã đưa vào trong tác phẩm của mình "những ý thơ": "Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi". Thật vậy, cụ thể trong "Vợ chồng A Phủ", ta bắt gặp một trong những nét đặc sắc nhất của Tô Hoài là biệt tài phát hiện và chuyển tải chất thơ trong cuộc sống bình dị vào trang viết. Chất thơ man mác bao phủ bầu không khí của tác phẩm là sự cộng hưởng hiệu ứng của nhiều thủ pháp nghệ thuật, ánh lên từ tình huống truyện đầy nhân văn, từ ngôn ngữ hàm súc và giọng điệu trần thuật giàu tính nhạc. Để rồi từ đó, hiện lên trong tác phẩm bàng bạc chất thơ này là thiên nhiên, là lối sống, là phong tục và tâm hồn con người không lẫn vào đâu được.

Mở bài 3:

Tô Hoài – nhà văn của người dân miền núi. Những năm tháng lặn lội, thâm nhập vào cuộc sống của con người vùng cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn nhà văn. Những bản làng chìm trong sương với những người dân chân chất, thật thà . Những con người sống trong cảnh đời cơ cực đầy những bất công dưới xã hội cũ nhưng lòng vẫn cháy không nguôi khát vọng sống mạnh mẽ tựa như sức sống vững vàng của núi, của rừng. Phẩm chất tốt đẹp đó của con người vùng cao được Tô Hoài phản ánh qua khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị – nhân vật chính trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ vào đêm tình mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc.

Mở bài 4:

Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực tram bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Và Tô Hoài đã phản ánh những điều ấy qua hình tượng nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

Mở bài 5:

Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu ký", nhà văn Tô Hoài đã rất nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là "để đời" đối với sự nghiệp của bất cứ người cầm bút nào. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại ở chú "dế mèn" mà còn đi xa hơn. Ra đi ở tuổi 95, ông đã để lại cho đời hơn 100 đầu sách. Nếu chỉ tính về mặt số lượng thì mấy ai làm được như ông? Còn nói về khía cạnh nghệ thuật, bảo rằng Tô Hoài đi được xa hơn cũng chính bởi khi nghĩ đến ông, người ta cũng nhớ ngay "Vợ chồng A Phủ" – truyện ngắn đã được dựng thành phim và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện thực dân tộc miền núi mà Tô Hoài đã cống hiến.

Mở bài 6:

Tô Hoài được biết đến như nhà văn của phong tục và người dân miền núi phía Bắc. Có lẽ vậy mà Tô Hoài chia sẻ: "Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi". Ông tìm kiếm sự chân thực với quan niệm viết văn là một quá trình không tầm thường, phản ánh sự thật ở đời cho dù phải đập vỡ những hình tượng trong lòng bạn đọc. Nếu cùng thời với nhà văn, Nguyễn Tuân lên Tây Bắc tìm thứ vàng mười đã qua thử lửa thì Tô Hoài Lên Tây Bắc với quan niệm Văn chương và khao khát đóng góp cho cuộc đấu tranh của nhân dân. Tám tháng gắn bó với bà con dân tộc miền núi phía Bắc (trong đợ theo bộ đội lên Tây Bắc mở trại sáng tác) là tám tháng Tô Hoài hiểu và cảm đời sống cùng tấm lòng của người dân nơi đây. Trước khi về, tạm biệt dân làng tại chân núi, hai tiếng "Cháo lù! Cháo lù!" (Trở lại! Trở lại!) để lại nỗi nhớ da diết về người thương nơi đây. Ông viết tập Truyện Tây Bắc và trong đó "Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn xuất sắc nhất. Truyện hoàn thành năm 1953 với người phụ nữ tên Mị trải qua cuộc đời đầy bi kịch trước những hào quang bề ngoài. Thế nhưng, sau sự cam chịu sống dật dờ, Mị đã thức tỉnh khao khát hạnh phúc và bứt phá khỏi sợi dây cường quyền, thần quyền để tìm lại tự do cùng với A Phủ.

Một số mở bài về Chí Phèo - Nam Cao

Mở bài 1: Phân tích tình yêu chí Phèo và Thị Nở (hay Sự Thức Tỉnh của Chí Phèo)

Ai đó đã từng nói rằng : “Tình yêu sẽ cảm hóa con người”. Ai đó đã từng nói: “Yêu là mù quáng”. Và người ta thường nhắc đến mối tình của Chí Phèo- Thị Nở như một câu chuyện hài hước về tình yêu dang dở, trái ngang. Nam cao đã để hai con người ấy gặp nhau qua tác phẩm “Chí Phèo”- một tác phẩm viết về người nông dân, sự đen tối và ngột ngạt của con người trước CMT8. Hai con người ở tận cùng của đáy xã hội gặp nhau, yêu nhau một cách cách tình cờ và chớp nhoáng.Nhưng chính chút tình yêu thương mộc mạc ấy , chút cử chỉ giản dị chân thành của Thị đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu trong tâm hồn Chí, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có bên rong con người lầm lạc của xã hội đương thời.

Mở bài 2: Phân tích nhân vật Chí Phèo

Có những khoảnh khắc con người ta bị dồn đẩy đến những bi kịch tận cùng phải tự tìm ra con đường giải thoát cho chính mình. Có những khoảnh khắc những bi kịch tiếp nối những bi kịch. Có nhiều nhà văn đã đẩy những bi kịch vào trong tác phẩm của mình như vậy để nhân vật trải qua biết bao xúc cảm “ hỉ, nộ, ái, ố” đều đủ cả để diễn tả hết thảy cái cuộc sống đầy rẫy những bất công của con người trong xã hội đương thời. Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao là hiện thân của những bi kịch ấy. Được in trong tập “Luống Cày” năm 1946,Nam Cao đã thực sự thành công trong việc xây dựng người nông dân trong bức tranh đen tối, ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt nam trước CMT8 qua “Chí Phèo” .Tác phẩm đã để lại biết bao nhiêu những cảm xúc trong lòng người đọc bởi tất cả những đau đớn trong bi kịch mà họ phải trải qua, là bi kịch của một đời người, là bi kịch của một số phận, là bi kịch của cả một thời đại mà nhân vật ấy sống, thật đáng thương biết bao!

Mở bài 3: Phân tích tác phẩm Chí Phèo

Ai đó đã từng nói rằng: “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”.Một nhà văn đã viết rất nhiều, viết rất hay, viết rất sâu sắc mà qua ngòi bút của ông mỗi nhân vật đều mang một cá tính riêng biệt, một nét đẹp riêng biệt không trộn lẫn. Đó là Nam Cao. Nếu như qua “Lão Hạc” ta bắt gặp hình ảnh người nông dân nghèo với phận đau thương nhưng hiền lành lương thiện và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ trong xã hội phong kiến. Thì khi đến với “Chí Phèo”- Một tác phẩm xuất sắc giai đoạn 1930-1945 viết về người nông dân trước cách mạng. Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh xã hội u ám, với những xung đột giai cấp quyết liệt, gay gắt. Đồng thời cho thấy những người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh hóa, bị hủy hoại cả thể xác lẫn tâm hồn, bị cự tuyệt quyền làm người. Với cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn. Bằng khả năng phân tích lí giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái, Nam cao đã xây dựng nên 1 tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà khó có thể tìm thấy ở các nhà văn đương thời.

Mở bài 4: Bi kịch bị tước đoạt quyền làm người

Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người nhất là những con người bị vùi dập, trà đạp. Đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45.Với Tắt đèn của Ngô Tất Tố ta bắt gặp hình ảnh chị Dậu phải chạy đôn chạy đáo kiếm từng miếng ăn, phải bán con, bán chó, bán cả sữa của mình cũng không đủ tiền nộp trong những ngày sưu thuế.Dưới con mắt của nhà văn trào phúng bậc thầy Vũ Trọng Phụng, cuộc đời như một tấn bi hài kịch thể hiện qua tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu cay trong tác phẩm: Số đỏ với bức chân dung biếm họa qua các nhân vật Xuân tóc đỏ, cụ cố Hồng, ông Phán mọc sừng, cô Tuyết. Thì đến với Nam Cao, ta lại được khám phá cái hiện thực đương thời ấy bằng một cái nhìn riêng biệt mà tinh tế qua nhân vật “Chí Phèo” trong tác phẩm cùng tên của nhà văn.Chí Phèo là hiện thân cho số phận đầy bi kịch: Một con người bị tước đoạt hết quyền sống, quyền làm người, một con người bị đồng loại bỏ rơi xa lánh, không được xã hội thừa nhận, một con người bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện sau bao lần cố gắng thay đổi chính mình.

Một số mở bài trong Hai đứa trẻ - Thạch Lam

Mở bài 1: Phân tích cảnh đợi tàu (hay Khi đoàn tàu đi qua)

Dãy phố nghèo của một cái thị trấn nhỏ có đường sắt chạy qua, một cái ga xép và cái chợ nhỏ cạnh cánh đồng cùng một ít nhân vật quen thuộc, lặng lẽ như những cái bóng. Đó là “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam, một tác phẩm in trong tập “Nắng trong vườn”, một truyện ngắn không có cốt truyện nhưng thấm đẫm tinh thần nhân văn. Qua Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã tìm được một lối biểu hiện rất riêng, tạo ra sức lôi cuốn, ám ảnh đặc biệt trong lòng người đọc qua những tình huống chuyện nhẹ nhàng mà lôi cuốn. Trong đó có thể nói, tình huống đợi tàu( hay khi đoàn tàu đi qua) là một tình huống độc đáo của tác phẩm khi đã khắc họa được khung cảnh nơi phố huyện nghèo chân thực mà lôi cuốn.

Mở bài 2: Phân tích bức tranh phố huyện

Ai đó đã từng nói rằng :”Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Quả thật đúng như thế, lật những trang sách của Thạch Lam, ta như lạc vào một thế giới khác, một thế giới biết bao xúc cảm về những cuộc đời, những cảnh ngộ với những kiếp người. Đến với “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam- một tác phẩm in trong tập “Nắng trong vườn”ta sẽ bắt gặp cái bức tranh để lại ấn tượng ám ảnh trong lòng người đọc, đó là bức tranh phố huyện nghèo trong thời gian từ chiều muộn về đêm khuya với nhịp sống đơn điệu, đượm buồn của những kiếp người nhỏ bé.

Mở bài 3: Phân tích các nhân vật trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ”

Trong không khí sôi động của trào lưu văn học giai đoạn 1930-1945 mà hầu như mỗi tác phẩm đều khắc hoạ thành công những nhân vật điển hình có ý nghĩa phê phán quyết liệt, tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách bịp bợm, giả dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân với thái độ cảm thông sâu sắc. Thì Thạch Lam chính là một tiếng nói nhỏ nhẹ, điềm tĩnh mà lắng sâu, hiền lành,thủ thỉ và có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam là một trong những thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn nhưng văn chương lại đi theo hướng rất riêng. Truyện của ông không có cốt truyện mà thường thiên về tâm trạng, nhân vật ông xây dựng là nhân vật xuất phát từ cảm xúc với những nét đẹp tâm hồn giản dị, mộc mạc mà đẹp đẽ, chân chất mà thật thà. Một trong những tác phẩm tiểu biểu cho ngòi bút của thạch lam chính là “Hai đứa trẻ”, một tác phẩm mà thông qua nó nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc trước cuộc sống nghèo khổ tăm tối của nhân dân, đồng thời bày tỏ thái độ trân trọng với những ước mơ khát khao đẹp đẽ của con người.

Mở bài 4: Phân tích hình tượng ánh sáng và bóng tối trong “Hai đứa trẻ”

Ánh sáng và bóng tối muôn đời được người ta xếp đặt ở vị trí đối lập nhau, sự đối lập hoàn hảo. Hai thái cực tưởng chẳng bao giờ có thể dung hòa ấy nay lại được nghệ thuật hòa trộn với nhau, bổ sung nhau, nâng cao giá trị cho nhau. Và cũng chỉ có ở nghệ thuật, mới có khả năng làm những điều bất biến kia thay đổi theo một cách khác lạ, độc đáo hơn, hấp dẫn hơn. Trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam- một trong những thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, điều làm nên sức hấp dẫn cho câu chuyện không chỉ là lối viết tinh tế miêu tả phố huyện nghèo tới mức chân thực và sinh động mà còn là nghệ thuật sử dụng hình ảnh mang tính biểu tượng cao. Chính hình tượng ánh sáng và bóng tối trong “hai đứa trẻ” tác giả đã khắc họa được cuộc sống nghèo khó tù túng và khát khao vượt ra khỏi thế giới nhỏ bé để tiến đến những ước mơ lớn hơn, tương lai tốt đẹp hơn của những con người phố huyện.

.............

Tài liệu vẫn còn, mời các bạn tải về để xem tiếp

download.com.vn