Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Những bài văn mẫu lớp 11 hay nhất
Nội dung chi tiết:
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam là tuyển tập gồm nhiều bài văn mẫu hay chọn lọc được Download.com.vn tổng hợp giúp các em học sinh biết cách làm bài văn phân tích.
Hy vọng tài liệu này giúp cho các em học sinh lớp 11 có thêm nhiều tài liệu tham khảo, luyện tập hoàn thiện bài văn phân tích, chuẩn bị cho bài viết trên lớp đạt kết quả cao. Chúc các em đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, thi sắp tới.
Dàn ý chi tiết giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, giới thiệu tác phẩm Hai đứa trẻ. Đặc biệt nhấn mạnh giá trị hiện thực.
- Chủ đề của truyện: Kiếp sống nghèo khổ, quẩn quanh trong đời sống tẻ nhạt, vô vị và khát khao hướng tới cuộc sống tươi sáng của người lao động nghèo.
II. Thân bài: Trình bày những biểu hiện tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm:
– Tác phẩm trước hết là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn, những cuộc đời tàn
- Hình ảnh ngày tàn: tiếng trống thu không; mặt trời lặn; bóng tối nhanh chóng ngập tràn.
- Hình ảnh phiên chợ tàn: người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi; hình ảnh mấy đứa trẻ con đi lại tìm tòi. Tất cả gợi sự buồn tẻ, nghèo nàn.
- Hình ảnh những kiếp người tàn; Một nhóm nhân vật lặng lẽ trong bóng tối, ít nói năng, ít hành động. Ngày lao động vất vả, đêm xuống buôn bán kiếm thêm nhưng rất ế ẩm. Cuộc sống mòn mỏi, tẻ nhạt quẩn quanh trong kiếp nghèo.
– Tác phẩm còn là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn (chú ý hình ảnh đoàn tàu và sự chờ đợi háo hức của người dân phố huyện hướng về đoàn tàu, đặc biệt chú ý tâm trạng của hai chị em Liên).
- Ý nghĩa của hình ảnh đoàn tàu: Đoàn tàu như đem một chút thế giới khác đi qua: tươi sáng, rộn rã, sang trọng (khác hẳn đời sống mờ nhạt, tăm tối, buồn tẻ, nghèo khổ muôn thuở của họ). Người ta nhìn đoàn tàu đi qua, lặng lẽ mơ tưởng theo. Họ mong muốn, khát khao cuộc sống tươi đẹp hơn.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại tài năng của Thạch Lam
– Cùng với những truyện ngắn khác của ông, Hai đứa trẻ đã góp phần thể hiện sự tài hoa, xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ - Mẫu 01
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó chi ghi lại một góc đời thường của những sô phận cơ hàn, nhưng thê mà Hai đứa trẻ đã toát lên yếu tố hiện thực và tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam qua mẩu chuyện lãng mạn nhưng rất hiện thực.
Câu chuyện mở ra cho ta một buổi chiều tà ở một phố huyện nhỏ bé xa xôi, nơi chị em Liên đang trải qua những ngày thơ ấu khó khăn…
“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Phương tây đỏ rực… dám mây ánh hồng…”
Giọng văn mở đầu riêng nó cũng đã đủ toát lên cái vẻ êm ả và hiu quạnh của một buổi chiều như bao buổi chiều ở một phố huyện đìu hiu, nghèo nàn. Chị em Liên đang dọn hàng sau một ngày buôn bán ế ẩm. Nhưng không chỉ có chị em Liên, mà còn những chị Tí, bác Siêu… cũng phải trải qua những chuỗi ngày đen tối nhất. Chị Tí ngày “mò cua bắt ốc”, tối đi bán nước, cuộc sống nó cứ bắt đầu như thế và vẫn kết thúc như thế, cứ như cái vòng lẩn quẩn mà họ không sao tìm ra lối thoát. những con người, những con đường… tất cả đều hiện lên với cái vé xơ xác của nó, gợi lên cho ta một cuộc sống ngột ngạt tôi tăm. Chỉ bằng giọng văn êm ả, không thôi, cả cuộc đời chung của những số phận riêng đã hiện lên ngột ngạt, khó chịu: “Chiếc chõng long nan”, “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…” của phiên chợ bốc lên, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã miêu tả được cuộc sống đó những cuộc đời nghèo khó của chị em Liên, của chị Tí, của những đứa trẻ con nhà nghèo hiện lên rất thực, không lãng mạn chút nào. Giọng văn cứ trôi đều đều, gợi lên cái chết cứng của không gian và thời gian để phố huyện nghèo nàn ấy hiện lên rõ nét. Và đặc biệt, giữa không khí phố huyện tĩnh lặng đến ghê sợ đó, lại vang lên tiếng cười của một bà già điên, vượt qua không gian nhỏ nhoi để lột trần cuộc sống mỏi mòn bế tắc của một con người và của bao con người. Đây là một chi tiết khá đặc sắc của Thạch Lam, nhà văn đã dùng nó đê miêu tả chính xác vẻ ảm đạm thê lương những cuộc đời vô vọng. Và đây là lúc Thạch Lam thầm kín bày tỏ tấm lòng êm mát sâu kín của mình đôi với những cuộc đời râ"t thực đó… Ân sau những nỗi buồn cuộc đời chị em Liên là tình thương của Thạch Lam đôi với những số phận nghèo nàn. Đó là tình yêu thương đồng loại giữa những cuộc sống đói rách, đó là tâm lòng thương xót của Liên khi thấy “những trẻ em nhà nghèo nhặt nhạnh” những gì có thế được, nhưng “không có tiền để cho”… chi tiết vừa hiện thực, vừa lãng mạn, muôn nói lên lòng thương người thầm kín của tác giả, mộc mạc, đơn sơ nhưng rất thiêng liêng cao cả.
Đó là thực tại, còn tương lai của họ cũng chẳng tươi sáng chút nào. Những con đường cát “mấp mố củng chẳng khác gì cuộc đời họ, những con đường nhỏ bé, đầy rác rưởi sẽ đưa chị em Liên, chị Tí, bác Siêu… về đâu. Chi tiết “con đường con” của Thạch Lam rất thực đã nêu lên cái tương lai ảm đạm nhưng cũng rất thực của bao người khôn khô kia. An đằng sau cái lãng mạn, chan chứa tình người của câu văn nhẹ nhàng là một hiện thực lớn lao về cuộc sống tôi tăm cơ cực của bao người. Con đường kia họ đã đi bao lần trong phố huyện nhỏ bé này, sáng đi kiếm sông, chiều tôi lại về, cũng trên con đường đó. Tương lai mở ra trước mắt họ chỉ là con đường vòng nhỏ hẹp không lối thoát kia. Đó là hiện thực khủng khiếp đang đe dọa cuộc đời những con người lầm than.
Giữa lúc tôi tăm ấy, quá khứ xa xăm ấy đã hiện về với chị em Liên như thứ ánh sáng mơ hồ hắt ra từ những ngọn đèn leo lét. Thạch Lam đã sử dụng thứ ánh sáng kia rất đặc biệt, đó là ánh sáng hiu hắt của quá khứ, đang hội tụ về thực tại. Ánh sáng leo lót soi rọi con đường cát “mấp mố kia là chi tiết tả thực pha chút lãng mạn, nhưng đều tập trung vào việc miêu tả những cuộc đời thật kia. Giữa lúc tôi tăm không ai câm chị em Liên mơ tưởng về những ánh đèn rực rỡ năm nào, nó là niềm an ủi cho thực tại, hi vọng của tương lai.
...............
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ - Mẫu 02
“Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy kkóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.
Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.
Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.
Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.
Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn '‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.
Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.
Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết vể chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc "bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.
Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.
Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt cua Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sông của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như quái giở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.
,................
Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết