Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt - Những bài văn mẫu lớp 12 hay nhất

Sử dụng: Miễn phí
Dung lượng: 248 KB
Lượt tải: 542
Nhà phát hành: Sưu tầm


Lâu mới có thời gian rảnh, nay chia sẻ cùng các bạn: Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân gồm nhiều bài làm mẫu khác nhau là tài liệu tham khảo dành cho các bạn học sinh lớp 12. Với tài liệu này giúp các bạn củng cố thêm kiến thức, vốn từ và phát triển thêm cho kỹ năng làm văn của mình.

Nội dung chi tiết:

Ngoài nhân vật Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ cũng là nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Sau đây mời các bạn học sinh lớp 12 cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt.

Tài liệu bao gồm 2 dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu phân tích nhân vật bà Cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt để thấy được vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật này ngời lên trong hoàn cảnh đầy éo le lúc bấy giờ. Nội dung chi tiết mời các bạn cùng tham khảo và tải tại đây.

Dàn ý phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ

I. Mở bài

Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật.

Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó

II. Thân bài

1. Sự ngạc nhiên đến sững sờ

Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ây là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.

2. Vừa mừng vừa tủi

- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.

- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ" lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, đế trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.

“Trong kẽ mất kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.

- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.

3. Nỗi lo

Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao... Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” oái éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hòa thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nổi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.

4. Niềm tin

- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.

+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này".

+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.

+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món cháo loãng và món “chè khoái” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.

- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngã nghèo đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hòa thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà... tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.

Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.

Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:

Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” '"bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.

III. KẾT BÀI

Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.

Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 1

Người mẹ Việt Nam luôn là một nguồn cảm hứng sáng tạo của văn chương. Không một thể loại nào là không có các tác phẩm viết về mẹ. Trong các tác phẩm của nhà văn của Kim Lân, người đọc chắc có lẽ không thể không bị ấn tượng bởi nhân vật bà cụ Tứ. Bà là một người mẹ nghèo có tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương con người và có niềm tin vào tương lai.

Bà cụ Tứ là mẹ của anh cu Tràng. Trong tác phẩm, bà xuất hiện trước người đọc trong bóng hoàng hôn tê tái, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho" chẳng khác nào một cái bóng lọng không đi vào ngõ. Trước mái tranh đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Nhà văn đặt nhân vật vào hoàn cảnh bất ngờ đó là việc đứa con trai đưa một người đàn bà về nhà làm vợ vào giữa ngày đói khủng khiếp và cái chết đang rình rập gõ cửa từng nhà. Viết về ba cụ Tứ nhà văn đi sâu vào phân tích tâm lý và tấm lòng nhân ái đáng trọng của bà đối với các con.

Cũng như mọi người trong xóm ngụ cư, lúc đầu bà rất ngạc nhiên và không thể hiểu nổi điều gì xảy ra. Thấy Tràng ra đón từ ngoài ngõ lại reo lên như một đứa trẻ vồn vã khác thường. Tâm trạng bà cụ Tứ trở nên phấp phỏng, có cáu gì đấy bất thường đang chờ đợi bà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn. Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng bà cụ: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Cho đến khi nghe Tràng phân trần cắt nghĩa, bà cụ mới hiểu. Lòng bà ngổn ngang những lo âu, tủi cực, xót thương lẫn vui mừng. "Bà lão cúi đầu nín lặng". Trong lòng bà đầy những ám ảnh của một dĩ vãng nặng trĩu những đắng cay. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến cuộc đời cơ cực dài dằng dặc của mình mà thương, mà tủi cực xót xa: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…" Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt. Nạn đói đang đe dọa, con có vợ bà lo lắng thự

Từ xót xa, mặc cảm, lo lắng bà nghĩ tới cái may của gia đình. Bà xót thương người đàn bà lạ. Lòng người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu cảnh ngộ người con gái xa lạ bỗng trở thành con dâu của mình. "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.." Nghĩ thế bà vui trong lòng, cử chỉ của bà dịu dàng âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" xưng "u" một cách chân tình: "Thôi thì các con phải duyên kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Với bổn phận làm mẹ, bà ao ước có được "dăm ba mâm" trước cúng tổ tiên sau mời làng xóm. Có thể nói bà là người suy nghĩ trước sau song cái khó bó cái khôn, ao ước giản dị ấy không thể thực hiện vì quá nghèo.

Thương con, bà thương dâu. Bà dặn dò nàng dâu bằng những lời động viên an ủi "Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời? Có ra rồi con cái chúng mày về sau". Bà lại động viên an ủi " cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá".

Sáng hôm sau, con trai đã có vợ. Gia đình bà dường như đã thay đổi. Sáng hôm sau bà cùng con dâu dậy sớm thu dọn, quét tước nhà cửa." Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Bữa cơm đãi nàng dâu thật thảm hại. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo". Bà đãi nàng dâu mới món "chè khoán" cháo cám. Nhưng bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, bà dặn con trai. Mấy hôm nữa mua ít nứa về ngăn cho khỏi trống, có tiền nuôi mấy con gà chẳng mấy chốc có cả đàn gà. Bà đem lại cho cá con niềm tin cuộc sống mặc dù tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Không khí ảm đạm vẫn bao trùm cuộc sống. Có thể nói trong bức tranh xã hội sáng hôm ấy, bà cụ Tứ là một điểm sáng về đạo lý làm người. Người mẹ không ao ước cho mình mà luôn sống vì con, cho con, cho lớp con cháu mai sau.

Nhân vật bà cụ Tứ tưởng như không thể có được nhất là trong hoàn cảnh gia đình bà, sự tăm tối của xã hội. Ngọn lửa tình mẫu tử ấy cũng đã đủ nhóm lên giữ niềm tin hi vọng vào tương lai tươi sáng. Nét đẹp và nhân hậu vốn có trong bà được tác giả diễn tả tinh tế qua cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc trong diễn tả tâm lý nhân vật, góp phầm khắc họa bẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nghèo Việt Nam.

Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 2

Những người mẹ luôn là người đem lại tình thương yêu lớn nhất, tình yêu bao la ấy có thể vượt qua những khó khăn, những thiếu thốn vật chất để mang lại một cuộc sống an lành hạnh phúc cho nhau. Trong nền văn học Việt nam biết bao nhiêu nhà văn xây dựng được hình tượng người mẹ như thế. nếu như Nguyễn Minh Châu xây dựng người mẹ đầy đức hi sinh là người đàn bà hàng chài thì Kim lân lại xây dựng thành công nhân vật Bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt. ngoài những phẩm chất của bà thì nhà văn đi vào miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật này. Để từ đó chúng ta càng thấy được những hi sinh, những nỗi niềm thương con vô bờ bến của bà.

Cụ Tứ là một người đã có tuổi, chồng thì đã mất con gái tên Đục thì đã đi lấy chồng bà sống với con trai tên là Tràng. Hai mẹ con bà xuất hiện trong nền cảnh của nạn đói năm 1945. Có thể nói chính hoàn cảnh khó khăn ấy càng làm nổi bật lên diễn biến tâm lý và phẩm chất của bà. Bà vẫn còn phải ra ngoài kiếm đồng rau cái muối, vẫn biết bao nhiêu nắng mưa, gánh nặng đổ lên đầu và trong buổi chiều hôm ấy bà bất ngờ trước hành động của con trai mình. Diễn biến tâm lý cũng bất đầu từ đó.

Cụ về đến đầu cổng cái ho thúng thắng của tuổi già cất lên, cụ thấy bất ngờ khi Tràng tỏ ra vui mừng đến thế. Sau câu nói cất lên “U đã về rồi đấy à” cùng với tâm trạng và hành động của Tràng linh cảm của một bà mẹ như giúp bà nhận ra rằng có một điều gì đó bất bình thường. Chính vì thế cụ Tứ lo lắng lắm và cứ thế tâm lý của cụ càng ngày càng diễn biến đến tầm cao hơn. Từ lo lắng bất thường cụ ngạc nhiên khi thấy sao lại có người đàn bà nào ngồi đầu giường thằng con trai mình thế kia. Những câu hỏi liên tiếp được cất lên cho thấy tâm trạng bối rối của người mẹ. bà chưa biết là ai nhưng linh cảm cho bà thấy một điều bất thường và cuối cùng thì nó đã đến.

Bước chân của cụ Tứ bước vào đến nhà cũng là tâm lý đạt tới đỉnh điểm. Từ chỗ ngạc nhiên khi người đàn bà ấy lại gọi bà bằng “u” đến chỗ Tràng nói “kìa nhà con nó chào u đấy”. Đọc đến đây ta như cảm tưởng được cụ Tứ đang mắt tròn mắt dẹt nhìn người đàn bà rồi lại nhìn con mình mà không hiểu. Và tai bà dường như không nghe thấy gì nữa. Một cảm giác khó tả diễn ra trong người phụ nữ ấy. Thế rồi bà như vỡ lẽ ra mọi chuyện khi Tràng nói thêm về tình cảnh này. Bà buồn bà dấu những giọt nước mắt của mình mà chấp nhận. Tại sao vậy đáng ra nhà có hỉ thì phải vui mới đúng chứ thế mà ở đây bà lại khóc. Không phải bà không thích có con dâu nhưng trong hoàn cảnh miếng ăn còn chưa lo được thì lấy nhau về lại chỉ khổ thêm. Vì thế bà buồn bà thương con trai mình rồi nhìn người đàn bà vân vê tà áo đã rách bợt cũng thấy thương cô ấy. Vậy nên bà nhắm mắt mà chấp nhận “Thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”. Có thể nói sau cái gật đầu kia là cả một nỗi lòng người mẹ, lo lắng cho con với cuộc sống sau nay. Bà thì thế nào cũng được nhưng bà không muốn con của bà thì bà muốn nó được sống cho qua cái tao đoạn này. Những cảnh tượng khói mờ mịt bên ngoài như nói thay cho tâm hồn của người mẹ ấy.

Khi bà đã vơi đi nỗi lòng ấy bà với trách nhiệm của người mẹ bà như khơi sáng cho con mình những ý nghĩ tốt đẹp cho tương lai. Bà nói rằng không ai giàu ba họ không ai khó ba đời cả vì thế chỉ cần qua cái tao đoạn này thì chính họ yên bề gia thất. Bà lấp đi trong chính mình cái thực tại đen tối để rồi cùng con cái mình nghĩ về những chuyện tương lai.

Buổi sáng hôm sau với bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới. bà dạy sớm cùng con dâu sửa soạn lại căn nhà quét dọn sạch sẽ mong chờ những điều tốt đẹp sẽ đến. Và ta cũng cảm thấy được những nét tâm trạng vui vẻ của bà khi thấy con mình hạnh phúc. Bữa cơm ấy bà là người nói nhiều nhất dường như bà không thể nào dấu đi niềm vui trong lòng mình. bà nói với Tràng về việc chỗ kia sẽ làm một cái chuồng gà nuôi hai con gà để mỗi ngày nó đẻ trứng ra ăn. Niêu cháo đơn sơ ấy chỉ vẻn vẹn có nồi cháo hoa lỏng thế nhưng mọi người ăn rất ngon cũng như bà đang rất vui. Hết cháo bà quyết định mang nồi “chè khoản” lên đãi các con. Thật ra thì đó là cám thế nhưng bà không muốn các con đói và bà cũng muốn níu giữ cái không khí vui vẻ hạnh phúc ấy. Biết rằng Tràng và vợ thấy chát ở trong lòng nên bà an ủi rằng nhiều người còn không có cám mà ăn. Vậy là người mẹ ấy với những phẩm chất của mình đã đem đến cho các con những niềm yêu thương niềm tin vào tương lai.

Như vậy có thể nói bà cụ Tứ đã diễn ra những cung bậc cảm xúc từ cao đến thấp từ buồn đến hạnh phúc vui tươi. Cuộc sống dẫu có vất vả đói nghèo cái chết tử thần thì lúc nào cũng cận kề thế nhưng bà vẫn cưu mang lấy người đàn bà kia, yêu thương con trai và hướng cho họ cái nhìn về một tương lai tốt đẹp hơn.

Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 3

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm hay của văn học Việt Nam với đề tài cuộc sống người lao động trước Cách mạng. Xuất hiện trong truyện là ba nhân vật với những cơ cực, tủi hờn khác nhau, nhưng có lẽ đáng thương hơn cả vẫn là bà cụ Tứ. Trong truyện, nhà văn Kim Lân đã dừng lại miêu tả khá sâu sắc diễn biến tâm trạng nhân vật này khi bất ngờ đón nhận tin vui của cậu con trai: Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ… có qua được cơn đói khát này không!

Nếu được đọc Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ ít nhiều thấm thía cuộc sống cơ cực của những người dân lao động. Bần cùng và bị bức bách đến mức tha hoá về nhân phẩm là bi kịch lớn nhất mà chính họ phải chịu đựng. Nhưng cũng có những con người trong cơ nhục vẫn bản lĩnh hay nói chính xác hơn là liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ, vì một lẽ rất đơn giản: tình yêu, tình người. Đó là ai? Là chị Dậu, là mẹ con anh cu Tràng…

Nếu như người dân Nhật không bao giờ cho phép mình quên sự thảm khốc khi Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống và Nagasaki thì người Việt Nam lại không thể quên năm 1945 bởi nạn đói chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Cho đến giờ, người ta vẫn nhắc về nạn đói năm đó như nỗi kinh hoàng nhất. Trong Vơ nhặt, cái đói, cái chết xuất hiện như một nhân vật có mặt khắp nơi. Người sống xanh xám như những bóng ma và người chết như ngả rạ. Cõi sống lại như cõi chết, lúc nào cũng vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Cố âm thanh đấy, nhưng không còn là tiếng cười đùa ríu ran của bầy trẻ mà là tiếng quạ cứ gào lên từng hồi thê thiết nghe thảm não. Ấy vậy mà khi tất cả mọi người đang quay quắt trong cái đói, đang từng giờ cưỡng lại thần Chết thì anh cu Tràng lại làm một việc động trời lấy vợ. Nhưng mọi sự đều có nguồn cơn của nó. Hàng xóm láng giềng không hiểu có thể cho anh cu Tràng gàn dở, chỉ có bà cụ Tứ – người dứt ruột đẻ ra anh, người mà cuộc đời đã trải qua bao cay đắng là thấm thía hết cơ sự.

Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà là những việc trọng đại của mỗi con người, cần có sự tham mưu của cha mẹ, của bề trên. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại được thông báo một cách đột ngột, khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên khôn tả. Ban đầu chỉ là sự thắc mắc khi thằng con trai sốt sắng săn đón khác mọi ngày: Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu chuyện, bà cụ phấp phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân đã rất tinh tế khi dùng hai chữ phấp phỏng để diễn tả sự lo lắng và nhẫn nại chờ đợi của bà lão. Hành động đứng sững lại đưa nhân vật tới đỉnh điểm của sự ngạc nhiên. Ngòi bút nhà văn không đứng ngoài quan sát mà nhập hẳn vào tâm trạng nhân vật, thấu suốt nỗi băn khoăn đang nảy theo những câu hỏi trong đầu bà lão: Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà Ai thế nhỉ? Bốn câu hỏi âm thầm liên tiếp bật lên trong suy nghĩ của bà cụ Tứ. Chính bà cụ không trả lời được những cũng không ai trả lời hộ bà. Mọi thắc mắc chỉ xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà trong nhà- Không ngạc nhiên sao được khi ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con nay lại có người thứ ba. Không ngạc nhiên sao được khi giả thuyết con cái Đục – đứa con gái duy nhất đã không còn nữa? Thế mà vẫn có người gọi bà cụ bằng u. Sự điềm tĩnh vốn có ở người già đã giúp bà cụ Tứ không phát hoảng lên. Nhưng đáng thương hơn bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: Bà cụ hấp háy cặp mắt cho đờ nhoen. Rốt cuộc, nỗi băn khoăn của bà cụ Tứ vẫn không được giải tỏ: Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Điều này để lí giải bởi trước sự việc của Tràng, bà cụ Tứ hoàn toàn bị động. Mọi việc đang đến với bà là sự đã rồi mà bà là người không hay biết điều gì cả.

Khi Tràng vẫn cố tình trì hoãn bí mật của mình, mời mẹ vào nhà ngồi chình chẽn, bà cụ lập cập bước vào nhà. Đó là sự run rẩy của tuổi già hay là sự thấp thỏm, lo sợ phỏng đoán những điều bất trắc có thể xảy đến? Với người mẹ nghèo khổ này, còn có điều gì khủng khiếp hơn sẽ đến nữa đây? Hai chữ lập cập của Kim Lân làm dậy lên trong lòng người đọc sự thương cảm sâu sắc. Biết trước sự việc rồi nhưng độc giả vẫn hồi hộp chờ đợi phản ứng của bà cụ, vẫn nín thở xem bà cụ sẽ nói gì, làm gì?

Nhân vật của chúng ta vẫn không vỡ lè ra mọi chuyện khi cô dâu mới cất tiếng chào lần thứ hai. Và dường như sốt ruột trước sự chậm hiểu của bà cụ, nhà văn còn để cho Tràng chú thích: Kìa nhà tôi nó chào u. Vậy mà bà cụ Tứ vẫn không thể hiểu được sự thể câu chuyện. Làm sao bà cụ hiểu được khi trong thâm tâm, chính bà cùng không tin con trai mình có thể lấy vợ. Anh cu Tràng vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, làm sao lấy nổi vợ? Với lại trong cái giai đoạn này, có ai còn nghĩ đến chuyện cưới xin được? Nỗi băn khoăn của bà cụ chỉ hết khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả… Và thế là bà lão cúi đầu nín lặng. Không phải là im lặng mà là nín lặng – tức là im lặng, nín nhịn vì không thể nói được điều gì. Bà cụ Tứ đã hiểu hết mọi chuyện. Kim Lân tiếp tục đồng cảm với những suy tư của bà để thấu hiểu hơn bao giờ hết những tủi hờn, xót xa trong lòng bà cụ: Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Ai oán vì sao? Xót thương vì sao? Bao cơ sự ấy là gì? Bà thấm thía lắm chứ. Những thổn thức trong lòng bà cụ chỉ Kim Lân mới hiểu, cảm thông và giải tỏa cho bạn đọc hiểu được. Thì ra suy nghĩ của bà cụ già không hề giản dị như chúng ta nghĩ. Cái nghèo đói không làm bà cụ di dãi chấp nhận cuộc sống buông tuồng. Bà cụ đang đau nỗi đau của người mẹ không thể lo nổi cho hạnh phúc của con mình. Lời văn: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… là lời tự trách, là tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào của người mẹ nghèo khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, nhưng trong kẽ mắt kèm nhem của bà cụ Tứ vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng cực. Đó là những giọt nước mắt khóc cho chính sự khốn khó của mình. Nhưng đó cùng là những giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ cho nhân cách của con người không sa xuống bờ vực của sự tha hoá. Người mẹ nghèo cũng chỉ còn những giọt nước mắt ấy làm chứng cho tình yêu tha thiết đối với các con.

Thương đến cháy lòng, khổ đến cùng cực nên bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu đáp: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Băn khoăn ấy không phải không có cơ sở. Cả xóm ngụ cư, lớn hơn là cả nước đang đảo điên trong nạn đói, giữ được mạng sống cho chính mình đã khó, đằng này, anh cu Tràng lại còn đèo bòng… Nồi lo lắng của bà cụ Tứ là nỗi lo của người mẹ có trách nhiệm với con cái. Ở tuổi gần đất xa trời, bà có quyền vô lo vô nghĩ đến những điều đó lắm chứ. Nếu không thương con, nếu không có trách nhiệm với cuộc sống của các con, bà cụ đã chẳng nhọc lòng, khổ sở như vậy.

Trong Vợ nhặt, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở nửa sau của câu chuyện. Với những tình tiết đã xảy ra phía trước, người đọc phỏng đoán bà cụ Tứ sẽ xuất hiện với bộ dạng cay nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng nông thôn. Nhưng ngay cả Tràng cũng bất ngờ trước thái độ của mẹ mình. Sự nhã nhặn trong cách cư xử, đặc biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khẳng định nhân cách cao đẹp của nhân vật bà cụ Tứ. Trước mắt chúng ta là một người mẹ hết lòng thương con, là một bà cụ nghèo khó nhưng phúc hậu rất mực. Tất cả những điều đã trải qua trong lòng bà cụ đã được Kim Lân ghi lại một cách chân xác, xúc động.

Kim Lân là một trong những nhà văn có khả năng am hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc. Dưới ngòi bút của ông, những nông nỗi sâu kín trong lòng người mẹ già được thể hiện chân thực, tinh tế, xúc động và ám ảnh. Nếu không có sự yêu thương, cảm thông, chia sẻ, nhà văn không thể thể hiện thành công diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn văn ngắn như thế. Hậu thuẫn cho tấm lòng nhân đạo chắc chắn còn là bản lĩnh nghệ thuật của người cầm bút. Hình ảnh bà cụ Tứ cùng với hình ảnh chị Dậu, hình ảnh người vợ cam chịu, tảo tần trong sáng tác của Nam Cao… đã làm nên sự bất tử cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam.

Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 4

Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh của nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn Vợ nhặt. Tác phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng, trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng quý của mẹ con Tràng và cũng là tâm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ.

Anh Tràng có vợ trong một hoàn cảnh không bình thường. Không phải anh Tràng cưới vợ, cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là "nhặt vợ", nói như người miền Trung và miền Nam là "lượm vợ" ở ngoài đường. Nhưng việc làm đó lại có ý nghĩa nhân ái của một lấm lòng nhân hậu. Thấy người đàn bà đói quá anh sẵn sàng cho ăn dù chẳng dư dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về nhà trong một tâm trạng vừa lo lắng bâng quơ và sung sướng một cách mới mẻ, lạ lẫm...

Nhân vật thứ hai của câu truyện, bà cụ Tứ, mẹ Tràng không được tác giả nói đến nhiều nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh động, nhân vật đã tạo được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng như Tràng, người mẹ khốn khổ, già yếu sống trong một xóm ngụ cư vất vưởng ấy một người đàn bà nhân hậu.

Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ "đứng sững lại" hết sức ngạc nhiên, "thế là thế nào". Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hoàn cảnh này. Nhưng khi hiểu ra cớ sự, "bà lão cúi đầu nín lặng", bà hờn tủi xót thương cho số kiếp của đứa con mình và cho thân phận của mình. "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Rồi bà cảm thấy khổ tâm, nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối xóm. "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái úc này... chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Và nỗi khổ tâm đau xót ấy cô đọng lại, biến thành những "dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng" thật tội nghiệp. Trong truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao cảnh đời đã khổ (phải rước dâu vào ban đêm để mọi người khỏi thấy cô dâu rách rưới, nhờ có đám cưới con, cha mẹ mới được một bữa ăn no), ở chuyện này, cái khổ nhiều hơn gấp bội. Bữa ăn đầu tiên của gia đình thay cho đám cưới là một bữa "chè cám".

Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ nghĩ thế nào? Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi "Tràng thở phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi". Bởi người mẹ ấy có quyền không đồng tình, có quyền trách mắng Tràng. Nhưng vì thương con bà cụ cũng thương dâu. Bà hiểu ra rằng dù sao người ta chịu lấy con mình cũng là điều đáng quý. Với những người già cả, trong môi trường xã hội phong kiến khắt khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà "nghĩ đến cuộc đời cơ cực khổ dài dằng dặc của mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực khổ như mình "lòng đầy thương xót". Trong không khí ngại ngùng, lúng túng của mọi người, bà đã có thái độ tế nhị, quan tâm đầy nhân hậu.

Bà nói đỡ cho cô dâu còn xấu hổ: "Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ mỗi chân". Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: "Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ".

Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì bà cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi lo, động viên con tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng cô dâu mới sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa: Khi nào có tiền mua lấy đôi gà...này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như cũng được đổi khác, bà "cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến với mọi người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được một ý nghĩa khái quát lớn: ở thời đại nào, hoàn cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ nghèo cũng thật tội nghiệp, họ hiểu con, thương con, lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải chịu đắng cay, chua xót.

Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế, truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc. Con người lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao khát hạnh phúc và họ chí tìm thấy khi biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn, những con người khốn khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.

Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực phê phán của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Và chắc chắn cuộc đời sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối cùng của tác phẩm "lá cờ đỏ bay phất phới" thể hiện niềm tin đó.

Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 5

Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu đồng ruộng". "Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. Vợ nhặt - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Bối cảnh của truyện là trận đói kinh khủng năm 1945. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ anh cu Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng ... Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh "đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những cái bụi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là những "niêu bát, sống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo khổ "hung hắng ho" chẳng khác nào một chiếc bóng "lọng không đi vào ngõ". Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão "đứng sững lại ", càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình bằng u? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhi?". Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình "nhoèn ra", ... rồi "lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão "băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng giới thiệu người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiêu đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: "Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy... vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn ủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: "Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì..."

Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không!". góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết theo. Bà sống với đứa con trai thô kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra" lại có tật vừa đi vừa lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ già càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ ngay đến cái may của gia đình mình: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" rồi xưng một cách thân tình, ruột thịt: "Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.

Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "cốt làm sao cho chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...''.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: "rồi ra may mà ông trời cho khá... biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau..."

Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tình nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rồi và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng này. Bà gọi nồi cháo cám "đắng chát" là "chè khoán", rồi rít khen ngon đáo để,ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy!".

Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân khi khắc họa tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: "hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hốt sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã được đem ra phơi...". Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu "lúi húi" giẫy cỏ... Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà bắt đầu đổi thay. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng hà "không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới... để khẳng định niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời..."

Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.

Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:

"Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa"

Cuộc đời của mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt này.

download.com.vn